Đại bi là cốt lõi của Phật Giáo Đại Thừa

Đại bi là cốt lõi của Phật giáo Đại thừa, mà từ đó mọi ước nguyện Đại thừa được sinh khởi. Sẽ chẳng có Phật giáo Đại thừa nếu không có đại bi. Ý tưởng về đại bi, như Đức Phật giải thích, không tồn tại trong bất cứ trường phái tư tưởng thế gian nào. Văn hóa cổ truyền Trung Hoa có nhiều nguyên tắc kỷ luật và văn hóa Tây phương ủng hộ lòng nhân đức và lợi ích xã hội, nhưng tư tưởng về lòng vị tha của Phật giáo là vô song, và điều này được minh chứng bởi, ví dụ như, pháp thực hành thiền định Tonglen 4 , hoặc như sự hứa nguyện của Bồ Tát về việc tận tụy một cách vô điều kiện với chúng sinh muôn loài. Đại bi có thể được giải thích chi tiết hơn theo hai quan điểm.

1. Quan điểm thông thường

Ví dụ, khi Đức Phật còn đang học hỏi trên con đường tu, Ngài đã không do dự bố thí thân thể mình cho con sư tử đói. Hoặc, nếu ai đó ép buộc một người nào đó trong căn phòng này nhảy từ tầng mười, thì hành vi theo tinh thần Đại thừa đích thực sẽ là mọi người trong phòng đều tình nguyện nhảy xuống [thay cho người kia]. Đó không phải chỉ là đầu môi chót lưỡi. Người ta cần mong nguyện với tất cả sự chân thành rằng, sẽ vô cùng đau đớn khi nhảy xuống như vậy, nhưng hãy để tôi nhận lãnh đau đớn cho họ. Hành vi bố thí hay nhẫn nhục như vậy là lòng đại bi theo quan điểm thông thường. Ý nguyện thực sự của Giáo Pháp không chỉ là có động cơ bi mẫn mà còn là hành động thực sự; không chỉ tham gia vào các hoạt động từ thiện để giải thoát hữu tình chúng sinh khỏi khổ đau tạm thời, chẳng hạn cứu trợ nạn nhân thiên tai, trao thức ăn và quần áo cho người túng thiếu, chăm sóc người đau bệnh và bị thương hay tương tự, mà còn là sẵn lòng làm mọi điều để giải thoát hữu tình chúng sinh khỏi luân hồi dù phải trả giá bằng mạng sống. Tuy nhiên, chúng ta không nên từ bỏ việc làm từ thiện chỉ bởi vì nó chỉ giải quyết được khổ đau tạm thời của hữu tình chúng sinh. Là hành giả Đại thừa, tức là những người mong mỏi làm lợi lạc mọi chúng sinh, chúng ta cần tham gia vào các hoạt động từ thiện trong cộng đồng.

Có một câu chuyện trong Luật Tạng: Một vị Tỳ kheo đang nằm bất động vì đau bệnh chẳng có ai chăm sóc. Giường của thầy ấy bẩn đến mức như thể thầy đang nằm trên đống phân của mình. Ngày nọ, Đức Phật đến thăm nhà của vị tỳ kheo này cùng với Tôn giả Ananda. Vị tỳ kheo hốt hoảng khi nhìn thấy Đức Phật, nhưng Ngài đã nhẹ nhàng an ủi thầy ấy và đích thân đem y áo bẩn đi giặt. Nếu Đức Phật có thể làm điều này, chúng ta, những môn đồ của Ngài, chẳng có lời bào chữa nào để không làm như vậy. Tuy nhiên, đây vẫn chưa phải là lòng bi mẫn thực sự. Lòng bi mẫn thực sự nghĩa là, vào thời điểm giữa sinh và tử, người ta lựa chọn hiến dâng cuộc đời vì chúng sinh muôn loài. Mặc dù lý tưởng này cũng có thể tồn tại trong vài trường phái tư tưởng hay học thuyết khác, nó vẫn bị nhiều hạn chế. Trong khi lòng đại bi của Đức Phật dành cho mọi hữu tình chúng sinh, chứ không chỉ dành riêng cho con người hay Phật tử.

2. Quan điểm siêu việt

Lòng đại bi lớn lao hơn, rộng khắp hơn, bao gồm nhiều hơn là việc chỉ đảm bảo những nhu cầu căn bản của hữu tình chúng sinh. Những nhu cầu này cần được quan tâm nhưng không phải là điểm trọng yếu. Điều quan trọng nhất là khiến mọi hữu tình chúng sinh hiểu được sự thật về luân hồi và các cách thức để giải thoát khỏi luân hồi. Đây là lòng bi mẫn lớn nhất của Đức Phật – đầu tiên giảng dạy hữu tình chúng sinh chân lý, sau đấy là các phương pháp giải thoát. Tại sao lại vậy? Ví dụ, một bệnh nhân có thể được chăm sóc cẩn thận để bình phục. Nhưng liệu chúng ta có thể ngăn người đó bị bệnh lại? Không. Chúng ta chỉ có thể giúp đỡ ngay lúc này. Chẳng có gì chúng ta có thể làm được cho bệnh tật mà người đó sẽ phải chịu đựng trong vô số đời tương lai. Thực sự, bất cứ kiểu giúp đỡ nào về vật chất, dù là thức ăn, quần áo hay tiền bạc, chỉ xoa dịu tạm thời những người cần [giúp đỡ], chứ không bao giờ có thể kéo dài. Cách duy nhất để hoàn toàn giải thoát hữu tình chúng sinh vĩnh viễn khỏi mọi khổ đau là dạy cho họ sự thật về luân hồi và dẫn dắt họ thực hành Pháp để họ bước vào con đường giải thoát. Một cách rốt ráo, đây là lợi lạc thực sự cho hữu tình chúng sinh, là ý nghĩa chân chính của sự cứu giúp. Chỉ hình thức bi mẫn này của Đức Phật mới có thể được xem là đại bi. Hình thức từ ái và đồng cảm dành cho chúng sinh muôn loài cũng là một kiểu bi mẫn nhưng không thể được miêu tả là “vĩ đại.” Đại bi liên quan mật thiết đến trí tuệ thậm thâm của Đức Phật, và Bồ đề tâm đơn thuần là trí tuệ như vậy. Chúng ta đều đồng ý rằng, về các hoạt động từ thiện, những tôn giáo khác có thể làm nhiều hơn, nhưng chiến tranh mà họ khởi xướng dưới danh nghĩa của từ thiện và công bằng cũng chẳng hề ít. Vì thế, vẫn có thể tranh luận xem liệu họ có nuôi dưỡng lòng bi mẫn tuyệt đối hay không. Nói một cách tương đối, Phật giáo không bao giờ hướng đến việc chinh phục bất cứ thứ gì hay bất kỳ ai. Đức Phật cũng nói rằng Ngài không quan tâm đến việc chiến thắng người khác mà Ngài quan tâm nhất đến chiến thắng trong trận chiến với tâm thức. Hơn thế nữa, đại bi có nhiều cấp độ ý nghĩa khác nhau. Đức Phật từng nói: “Ta chỉ ra cho các ông con đường giải thoát. Đi hay không là quyền của các ông.” Nói cách khác, số phận của mỗi chúng sinh nằm trong tay họ, chứ không phải trong tay Đức Phật. Thái độ này khác với các tín điều khác, như Đấng Cứu Thế hay Đấng Sáng Tạo có thể quyết định xem ai sẽ lên thiên đường hay xuống địa ngục. Sự khác biệt như vậy cũng phản ánh kiểu tự do, khoan dung, công bằng và an bình chứa đựng trong đại bi của Phật giáo. Thực hành sự hợp nhất của trí tuệ và đại bi Làm sao chúng ta có thể thực hành trí tuệ và đại bi? Thực sự, sáu Ba-la-mật mà chư Bồ Tát thực hành đều nằm trọn trong trí tuệ và từ bi: bố thí, trì giới và nhẫn nhục là các thực hành thuộc về đại bi; nhất tâm thiền định và tuệ quán là các thực hành thuộc về trí tuệ; [ngoài ra], tinh tấn là điều kiện bổ trợ cho sự thực hành cả trí tuệ lẫn đại bi. Đó là cách thức đơn giản và trực tiếp khi định nghĩa Phật giáo là trí tuệ và đại bi. Ý nghĩa sâu rộng hơn của Phật giáo là sáu Ba-la-mật. Nếu tinh túy của toàn bộ Phật giáo được cô đọng thành trí tuệ và đại bi, có cách nào để bao quát tất cả tám vạn bốn nghìn giáo lý trong một thời công phu? Câu trả lời là có, đó là thực hành trí tuệ và từ bi.

Một số người có thể nghi ngờ khả năng thành tựu của việc thực hành cả hai điều trong một thời công phu, bởi đại bi cần được thực hành với sự quán chiếu tỉ mỉ và sâu sắc trong khi trí tuệ chứng ngộ tính Không đòi hỏi sự vắng bặt những ý nghĩ lan man. Với những người sơ cơ như chúng ta, trước tiên, chúng ta cần vun bồi Bồ đề tâm và sau đó thọ nhận Bồ Tát giới. Rồi khi thọ nhận giới luật, Bồ đề tâm – tinh túy của Bồ Tát giới – đã nằm sẵn ở trong dòng tâm thức chúng ta. Trên nền tảng này, chúng ta có thể tiến đến việc thực hành tính Không. Trong khi ý tưởng “mong ước mọi hữu tình chúng sinh thoát khỏi khổ đau của luân hồi” có thể không hiển hiện rõ ràng khi ta bắt đầu thể nhập tính Không, tức là, không có lòng bi mẫn hiển nhiên ngay vào lúc ấy, nhưng Bồ Tát giới vẫn đồng hành cùng chúng ta khi ta bước vào trạng thái của tính Không, do bởi tinh túy của Bồ Tát giới vốn đã nằm sẵn trong tâm thức chúng ta. Bồ Tát giới không phải là vật chất, và chẳng là gì khác ngoài một điều kiện thuộc về tâm. Mặc dù sẽ không có những ý nghĩ riêng biệt nào xuất hiện trong tâm khi ta bước vào trạng thái thể nhập tính Không, nhưng Bồ Tát giới thực sự vẫn hiện hữu vào ngay lúc đó. Vì thế, khi ta không tách rời hai điều này thì tâm thức và Bồ Tát giới có thể cùng nhau bước vào trạng thái của tính Không. Lúc này, Bồ Tát giới là tính Không và tính Không là Bồ Tát giới. Sự hợp nhất của trí tuệ và lòng bi mẫn nghĩa là như vậy. Ở đây, hợp nhất nghĩa là khi chúng ta thâm nhập tính Không, tâm ta sẽ đạt được một sự chứng ngộ tính Không bất khả phân với Bồ Tát giới. Nếu hành giả có thể thực hành như vậy, họ sẽ có thể nắm bắt được tinh túy của Phật giáo Đại thừa và không cần bất cứ thực hành nào khác. Đây là cách mà một người sơ cơ có thể bắt đầu thực hành sự hợp nhất của trí tuệ và từ bi. Nếu họ có thể làm được điều này, tinh túy của tám vạn bốn nghìn pháp môn của Đức Phật sẽ được bao trọn trong một thời thực hành, ở cùng một địa điểm hoặc cùng vào một thời điểm. Về các thực hành tuần tự liên quan đến Bồ đề tâm và tính Không, chúng đã được giảng dạy trước đây, vì thế không cần thiết phải lặp lại ở đây. Chỉ cần kết hợp cả hai. Một cách tự nhiên, trước khi vun bồi đại bi, hành giả cần phát khởi sự xả ly trước. Họ không thể có lòng đại bi dành cho hữu tình chúng sinh nếu không biết đến khổ đau của luân hồi, bởi lòng bi mẫn đến từ chính khổ đau của hữu tình chúng sinh. Không có lòng bi mẫn, sẽ chẳng có Bồ đề tâm. Điều kiện khác để phát triển sự xả ly là ham muốn giải thoát. Khi thấy khổ đau của hữu tình chúng sinh, chúng ta mong ước giải thoát họ mãi mãi khỏi nanh vuốt của luân hồi. Nhưng suy đi nghĩ lại thì làm sao chúng ta có thể giúp đỡ chúng sinh nếu không đạt giải thoát cho bản thân trước? Với tư tưởng như thế này trong tâm thì hai điều tiên quyết để phát khởi sự xả ly – chán ghét luân hồi và mong muốn giải thoát – đều hội đủ. Xả ly là nền tảng của Bồ đề tâm. Khi đã phát khởi Bồ đề tâm, chúng ta đủ phẩm tính để thọ nhận Bồ Tát giới, điều mà chúng ta có thể tự ban cho mình. Sau đó, chúng ta có thể bắt đầu thực hành về tính Không. Biết rằng sự hợp nhất của trí tuệ và từ bi là sự kết hợp của tính Không và Bồ đề tâm nghĩa là chúng ta hiểu trọn vẹn về tinh túy của tất thảy giáo lý Hiển và Mật của Đại thừa Phật giáo. Sự xả ly và Bồ đề tâm cần được thực hành riêng biệt theo trình tự đúng đắn, và theo sau là phần thực hành về tính Không. Như thế, sự xả ly và Bồ đề tâm là những gì được thực hành trước, và rốt ráo cũng sẽ trở thành trí tuệ của tính Không.

Ở đây, tính Không không giống như quan kiến vô ngã của Tiểu thừa. Thay vào đó, tính Không ở đây chứa đựng yếu tố đại bi. Và trong đại bi đó, có sự chứng ngộ tính Không. Những quan điểm và thực hành về sự hợp nhất của trí tuệ và từ bi này bao trùm mọi điểm phi phàm ẩn tàng của Giáo Pháp. Tuy nhiên, nói thì bao giờ cũng dễ hơn làm! Sự xả ly phụ thuộc vào thực hành bốn pháp tu sơ khởi phổ thông, đó là lòng xác quyết về (1) sự hiếm có và quý giá của thân người và lòng xác quyết về (2) lý vô thường của vạn pháp phải được sinh khởi. [Ngoài ra,] để Bồ đề tâm xuất hiện, còn cần có đủ công đức được tích lũy nhờ (3) thực hành cúng dường Mandala và (4) các che chướng cần được tịnh hóa và chữa lành nhờ thiền định về Kim Cương Tát Đỏa. Một cách rõ ràng, chúng ta không thể tránh bỏ việc thực hành các pháp tu sơ khởi phổ thông và siêu việt dù chúng ta chọn sẽ đi thế nào trên con đường tu. Đó cũng là lý do tôi thường quả quyết về tính cần thiết của pháp tu sơ khởi. Bởi vì chúng ta biết được ý nghĩa thật sự của Phật giáo là trí tuệ và từ bi, nên từ nay trở về sau, chúng ta sẽ học hỏi và thực hành chỉ hai điều này.

Đức Khenpo Tsultrim Lodro

Viet Nalanda Foundation