Điêu khắc Phật Giáo

Tổng quan

Nhiều nhà nghiên cứu Tây Phương khi quay về tìm hiểu đến mỹ thuật Việt Nam đều thừa nhận toàn bộ những công trình đều mang những giá trị đặc thù, tinh vi, sâu sắc.

Vào tháng tám năm 1959, trong một cuộc triển lãm điêu khắc Phật Giáo thế giới tại Ấn Độ, Việt Nam đưa sang pho tượng nghìn tay nghìn mắt tham dự. Đây chỉ là pho tượng bằng thạch cao đúc lại tượng Quan Âm “thiên thủ thiên nhãn” tại chùa Bút Tháp, nhưng đã khiến cho nhiều nhà nghiên cứu mỹ thuật Phật Giáo “ngạc nhiên đến cùng độ về tinh thần và kỹ thuật điêu khắc nầy. Nhưng nếu họ đến tại chùa Bút Tháp, huyện Thuận Thành để nhìn tận mắt pho tượng đó, nhìn nguyên bản bằng gỗ, sơn son, thếp vàng, với dáng uy nghiêm cổ kính, chắc hẳn phải quan tâm bằng mấy lần. Và nếu họ biết được trong thời gian chiến tranh pho tượng nầy đã được tháo ra hàng trăm mảnh rời và sau đó lại được ráp lại nguyên vẹn, không một chút dấu tích thì lại càng khâm phúc tài kiến tạo những pho tượng kiểu nầy đến chừng nào.

Những nhà nghiên cứu đã tìm hiểu kỹ về niên đại và tác giả của pho tượng cho biết: Tượng được tạc vào năm 1656 và tác giả là người họ Trương (Trương Phấn). Ngoài pho tượng nghìn tay nghìn mắt vừa kể trên, tại nhiều chùa chiền Việt Nam, còn bảo lưu đến nay được nhiều pho tượng đủ kiểu, đủ thể tài rất nổi tiếng khác. Chẳng hạn: tượng Tây Thiên Đông Đô Việt Nam Lịch Đại Tổ tại chùa Bút Tháp (Hà Bắc), tượng Quan Âm thiên thủ, thiên nhãn ở chùa Kim Liên sau nầy được đưa về thờ tại chùa Quán Sứ Hà Nội, tượng đức Phật nhập Niết bàn ở chùa Phổ Minh (Nam Hà)… Nhiều pho tượng La Hán, Tôn Giả ở chùa Tây Phương (Hà Tây) trong đó nhiều pho được liệt vào hàng tuyệt tác của nền nghệ thuật điêu khắc Việt Nam.

Qua những biến chuyển của nền mỹ thuật Việt Nam, năng khiếu về trang trí trong nhiều thể loại khác nhau đã có những biến chuyển lớn lao. Những vật thường dùng như chân đèn, lư hương, móc giây thắt lưng, bát đĩa… đều có chạm khắc hình học hay những động vật đã được cách điệu khá mỹ thuật, để gia tăng thêm vẻ đẹp cũng như trong ý nghĩa. Dần dàn về sau qua những tiếp thu mới cũng như khả năng trau dồi của nghệ nhân, mỗi đồ vật thường dùng trong nhà cũng đều được gia công thêm về mặt mỹ thuật gia tăng bấy nhiêu. Những nhà cửa những gia đình khá giả, đình chùa, miếu vũ… thì những cột, kéo, xà nhà, xuyên, trến, hổ phù, phù điêu, cột chống… cho đến những bậc thăng cấp, nóc nhà, gạch ngói đều có thêm những nét chạm trổ, trang trí cả.

Những đồ dùng lớn nhỏ trong nhà như bàn ghế, tủ, những vật tế nhuyễn như khay, hộp, lọ, bình… không vật nào là người Việt không gia công trong việc trang trí tỉ mỉ, để gửi gấm một chút tâm hồn nghệ thuật của mình vào trong đó, được xem như một phần đời sống của mình vậy. Khi ảnh hưởng của tôn giáo vào nước ta thì những hình thức trang trí cũng được áp dụng, chọn lọc khá tinh tế.

Chẳng hạn như ảnh hưởng của Ấn độ, Trung Hoa, Chiêm Thành. Nghệ thuật Ấn Độ không chỉ là đồ án dùng hình dáng những loài cầm thú, mà thể loại được bao trùm nhiều hình ảnh khác. Vì quan niệm vạn vật nhất thể, mà trong nghệ thuật Ấn Độ đã đưa vào những hình vật như voi, ngựa, rồng, hươu, khỉ, rắn, mà người phương Tây ít khi nghĩ đến. Khi những ảnh hưởng sang nước ta thì những thể loại cách điệu như thế vẫn còn nguyên.Trung Hoa cũng vậy.

Khi nền văn minh Phật Giáo truyền sang Trung quốc, thì những nghệ sĩ của nước nầy bổ sung vào kho tàng văn hoá Ấn Độ cả một thế giới thần thoại khác. Họ dùng những vật có thực nhưng đã được thi vị hoá lên, để phù hợp với ý nghĩa của tôn giáo và triết lý. Từ những con vật thần thoại, mà những nghệ sĩ Trung Hoa thời cổ cũng đã cụ thể hóa một cách chi tiết đến những thảo mộc bốn mùa, mang tính triết lý. Khi tiếp thu những nguồn ảnh hưởng như đã nói, thì những nghệ sĩ Việt Nam thời trước cũng đã biết cách kết hợp đặc biệt với đồ án dân tộc và cơ sở cho nền nghệ thuật trang trí Việt Nam.

Trong nghệ thuật trang trí cũng như nghệ thuật nói chung, nghệ sĩ Việt Nam trước đây đã chịu ảnh hưởng của Phật Giáo và triết lý của Khổng, Lão. Những vật có thật hay trong tưởng tượng trong những đồ án trang trí hay trong đề tài của những tác phẩm mỹ thuật nói chung thường mang ý nghĩa về tôn giáo hay về triết lý, tư tưởng.

Khi trang trí một vật, những nghệ sĩ Việt Nam chẳng những muốn làm cho những vật đó đẹp thêm ra, mà lại còn làm cho nó có ý nghĩa về chúc tụng, mong ước nào đó. Người Âu châu thường đặt ra mỗi ý nghĩa cho một loại hoa, thường được gọi là “tiếng nói của hoa”. Nhưng những nghệ sĩ của nước ta không chỉ giới hạn về tiếng nói của những loại hoa tượng trưng, mà lại còn mở rộng nó ra trong các loài cầm thú và thảo mộc. Tặng cho người bạn một tác phẩm trang trí, chẳng những làm cho bạn vui thích được một vật trang trí nhà cửa, mà còn cảm kích vì luôn luôn có trước mặt những lời chúc tụng của kẻ tri âm.

Nghệ sĩ Việt Nam không những cách điệu đồ án cho đẹp và thích hợp với bố cục của cách trang trí, mà có điểm ý nghĩa nhất là tưởng tượng làm cho các vật được “biến thể” ra vật khác để gia tăng thêm ý nghĩa và tính chất trang trí của đồ án.

Qua thời đại Lý Trần, nền độc lập đã được củng cố lâu ngày sau những chiến công lừng lẫy, những loại hình nói trên đã không tìm thấy nữa, mà thay vào đó là những hoa văn mới sáng tạo với phong cách độc đáo hơn hẳn. Cũng nên hiểu rằng trong thời đại Lý, Trần, Phật Giáo rất thịnh hành tại nước ta, những loại hình có liên quan đến Phật Giáo như lá bồ đề, hoa sen, vũ nữ uốn mình theo điệu “Tribanga” của Ấn trở nên rất phổ biến trong nghệ thuật trang trí của những chùa chiền, đền tháp; tuy nhiên những nghệ nhân thời Lý, Trần đã biết cách Việt Nam hoá một số, để trở thành những hình ảnh độc đáo không tìm thấy ở những nơi khác. Chẳng hạn như hình lá bồ đề, thì thường có con rồng bé nhỏ nằm gọn trong chiếc lá, một thứ hoa văn gần giống như chữ ký đời nhà Lý, hoa sen được thể hiện trong nhiều hình thái và thường cũng có hình của những con rồng nhỏ trong những cánh hoa nầy. Chính những hình rồng đặc biệt của đời nhà Lý cũng là sự phối hợp hình rồng phương bắc và hình rắn của những dân tộc theo nền văn minh Ấn Độ.

Hình những vũ nữ múa những khúc thường lại biến thành những vũ nữ dâng hoa, chẳng hạn như hình ở những bậc đá của tháp đời nhà Lý ở Chương Sơn (Hà Nam) hay những thiếu nữ sùng bái Phật như hình khắc ở những chân cột của chùa Phật Tích còn thấy như ngày nay. Cũng về phương diện này, chúng ta thấy được những hoa văn hình những đám mây đang xoắn chung quanh những nhân vật thần thoại, chẳng hạn như những bức chạm nổi tại chùa Thái Lạc (Hải Dương hay những cánh cửa của chùa Phổ Minh (Hà Nam), những hoa văn hình sóng nước như ở nền tháp Phổ Minh, hoa văn hình hoa cúc theo từng dây dài, như mặt đá chạm nổi tìm thấy ở tháp Chương Sơn. Đây là những ví dụ điển hình của những công trình sáng tạo nổi bật trong nền mỹ thuật trang trí thời đại Lý Trần.

Qua đến đời Hậu Lê, thì nghệ thuật trang trí cũng như điêu khắc, kiến trúc đều có thể chia ra làm hai giai đoạn khác nhau: thời lê sơ và thời lê mạt. Trong những năm quân Minh sang xâm chiếm nước ta, những công trình văn hoá của cha ông chúng ta trong những thời kỳ trước đều bị chúng thiêu đốt, phần khác thì mang về tàu trong mục đích đồng hoá người dân Việt. Những truyền thống rực rỡ trong thời đại Lý, Trần đã không còn nữa.

Cũng trong thời gian này đã không đủ thời gian để phát triển về lãnh vực trang trí và đồ họa. Trong những công trình buổi đầu, như bia Vĩnh lăng ở lam Sơn, những nghệ nhân trong thời lê sơ chỉ có thể chép lại những hoa văn theo kiểu “lá đề có hình rồng” như thời nhà Lý trước đó. Những tượng rồng đẹp ở Lam kinh (Thanh Hoá) và đền Kính Thiên (Hà Nội) được sáng tạo trong thời kỳ này là hình tròn, chứ không phải là những hình hoa văn trang trí. Tuy nhiên, qua đến thời trung hưng về sau, khi Phật Giáo trở lại thời thịnh hành, thì nhiều chùa đã được trùng tu hay xây dựng mới. Kiến trúc thường đòi hỏi nghệ thuật trang trí phải phát triển để có thể đóng góp vào trong việc trang hoàng những công trình kiến thiết.

Hơn thế nữa, trong mấy trăm năm giữ vững nền độc lập quốc gia, thì những nghệ nhân Việt Nam đã có thì giờ sáng tạo để có thể đáp ứng vào những yêu cầu này. Hoa văn đặc sắc nhất trong thời lê mạt là những “hoa văn hình ngọn lửa” thường được thực hiện trên những công trình chạm nổi hay bất cứ hình thức nào, trong giai đoạn này. Đây là điểm chính yếu nổi bật của giai đoạn nầy. Những hình thức hoa văn trong thời kỳ lê mạt khá phong phú, đa dạng, tuy nhiên đã không độc đáo như trong giai đoạn nói trên.

Trong Khâm định việt Sử thông Giám cương mục có viết: Năm 1734,Trịnh Giang đã cấm những thường dân trong nước không được trang trí hoa mỹ trong nhà cửa, đồ dùng; người thợ cũng không được đua nhau chế tạo “những đồ mới lạ” trong quần chúng. Thành thử, ngoài những công trình xây dựng các cung điện của vua chúa, thì người thợ không có quyền sáng tạo thứ gì hết; họ không thể mạo hiểm để tìm kiếm những điều gì khác hơn; một số đã vì sự gò bó vô lý nầy cho nên đã giải nghệ để kiếm nghề khác sinh nhai. Điều này thấy rõ nhất trong những bia tiến sĩ ở văn miếu Hà Nội được dựng lên trong thời kỳ nầy. Nếu muốn hiểu được quá trình tiến triển của nghệ thuật trang trí Việt nam trong các thời kỳ đó, tốt hơn hết là đem so sánh những bia ký của từng triều đại.

Kiểu dáng tượng Phật

Những giai đoạn trước đời nhà Lý (thế kỷ XI) đạo Phật đã thịnh hành trong dân gian, nhiều chùa được kiến lập và đương nhiên chùa nào cũng có tượng thờ. Tuy nhiên, những tượng nầy thường chạm liền vào môt mảnh gỗ hay được tạc rời ra thành từng pho tượng, điều nầy chưa thấy nói đến trong môt thư tịch nào còn giữ cho đến ngày nay. Pho tượng cổ nhất tạc rời còn tìm thấy được là pho tượng đá đức Phật A Di Đà đời nhà Lý tại chùa Phật Tích, Hà Bắc (thế kỷ XI). Căn cứ theo những điều ghi lại trên văn bia và lời kể thì tượng này xưa kia được sơn son thếp vàng, trong những trường hợp trùng tu lại. Pho tượng gỗ lõi mít cổ nhất còn được bảo lưu lại đến nay là tượng đức Quan Thế Âm Bồ Tát 42 tay (vào hậu bán thế kỷ XVI) tại chùa Hạ, Vĩnh Phú, hiện đang được trưng bày tại Viện bảo tàng Mỹ Thuật Hà Nội. Trong những công trình nầy, vẻ đẹp của những pho tượng được nói lên đầu tiên phải là ở hình dáng. Với ý nghĩa nầy, tượng Phật phải làm cho đúng kiểu, nghĩa là theo đúng những quy định trong kinh điển Phật Giáo.

Thông thường, trong điêu khắc, tượng Phật ngồi thì phải đúng môt trong 3 kiểu chính như sau: Kiết già, tĩnh toạ, nhập định. Tượng đức Phật Bổn Sư Thích ca mâu Ni thì có bốn kiểu thường được nói đến: Tượng Phật Cửu Long (chín con rồng chầu) theo điển lúc Phật đản sinh; tượng Tuyết Sơn (tên môt đỉnh núi ở Bắc Ấn) tạc theo điển lúc đức Bổn Sư tu khổ hạnh; tượng Thuyết Pháp hay tượng Niệm Hoa (Niệm hoa vi tiếu) tạc theo điển lúc đức Phật Thích ca cầm hoa sen thuyết pháp; tượng đúc Thích Ca nhập Niết Bàn tức là tượng Phật nằm, tạc theo điển Thích Ca nhập diệt, nằm nghiêng về bên trái, gối đầu lên cánh tay trái. Tuy ảnh hưởng theo những công thức tôn giáo trong nội dung ấn định, nhưng các nghệ nhân tạc tượng vẫn có tinh thần sáng tạo ra những pho tượng Phật thật đặc sắc còn lưu truyền mãi cho đến ngày nay ở nhiều chùa thiền, đền miếu.

Nhìn chung, nhiều nước theo Phật Giáo như Trung Hoa, Ấn Độ, Tích Lan, Thái Lan cũng làm những tượng Quan thế Âm nhìn tay, nghìn mắt, tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa thấy có pho tượng nào theo kiểu này thể hiện đầy đủ và tinh xảo như làViệt Nam (P.Durand). Theo những nghiên cứu di tích còn lại, tại Việt Nam trong quá khứ, các nghệ nhân đã làm thêm môt bảng gỗ lớn, bao gồm hàng trăm cánh tay giơ lên, xếp thành từng vòng hướng vào tâm chung ở phía sau gáy đức Quan Thế Âm, trong mỗi bàn tay lại khắc thêm một con mắt (biểu hiện tinh thần sáng suốt).

Tượng Phật

Đồ tượng học là phương pháp phân định những loại tượng thờ tại những cơ sở tín ngưỡng đình chùa, miếu điện hay trong dân gian. Những nghệ nhân trong ngành đồ tượng học đã nghiên cứu những pho tượng cổ điển đồng thời gia công cải sửa lại từng khuôn mặt, thể dáng, thủ ấn, trì vật sao cho thích hợp. Chính do những gia giảm các chi tiết của đồ tượng, mà nghệ nhân ngành chế tác tượng hình có thể biểu đạt nguyên tăc nghi qui và đồ tượng. Nghi qui là các nghi lễ, tư thế, trang phục thích ứng.

Đồ tượng là hình thể của tượng đi, đứng hay ngồi. Việc thực hiện đồ tượng phải vâng theo (a) kinh điển ghi chép của từng vi (b) quy pháp và phật thoại (c) nguyên tắc tạo hình trong nghệ thuật điêu khắc. Hình tướng Phật và La Hán: Các hình tướng: Về hình tướng Phật tượng nói chung, dựa theo những nguyên tắc trong nghệ thuật tạo hình, thường phân chia ra các loại:- Phật hình- Bồ tát hình- La hán hình- Thần vương hình- Thiên vuơng hình- Quỷ hình- Súc hình. Mỗi thể loại còn được chế tác theo nguyên tắc cách điệu, biểu trưng, tả chân, ấn tượng. Điều cơ bản để tạo nên sự khác biệt ấy một phần quan trọng là do các tư toạ lập, các thức thủ ấn, trang phục.

Tượng Phật: Có 5 cách thể hiện Phật Thích ca diễn tả những giai đoạn quan trọng trong cuộc đời của đức Thế Tôn: (a) Tượng Cửu Long (chín con rồng chầu) thể hiện lúc đức Thích ca đản sanh. (b) Tượng Tuyết Sơn: thể hiện giai đoạn tìm đạo, tu khổ hạnh. (c)Tượng Niệm Hoa: thể hiện giai đoạn đức Bổn sư cầm hoa sen thuyết pháp. (d) Tĩnh toạ: đức Phật thành chánh quả (e) Nhập diệt: đức Phật nhập Niết bàn, trong tư thế nằm. Trong mỗi tư thế đã toát ra được những phong cách và phẩm chất khác nhau trong từng chặng đời của đức Phật. Tượng Phật thường được trình bày trong tư thế kiết già, mình choàng ba lớp áo. Toàn thân của ngài thể hiện toàn vẹn 32 tướng tốt. Nét mặt thung dung tự tại khác thường. Phía bên trái có Tượng đức Quan Thế Âm Bồ tát “thiên thủ thiên nhãn” toàn màu trắng xoá, bên cạnh có Thiện tài Đồng Tử (theo truyện Tây Du Ký là Hồng Hài Nhi). Ngoài ra còn tượng chư vị Bồ tát, La Hán, Tôn Giả, Thiên Vương. Một trong những điện thờ uy nghiêm nhất của chùa là tượng Kim Cương; theo ý nghĩa kiến trúc thì: Kim cương là những vị thần tướng được Ngọc Hoàng phái xuống để hộ trì đức Phật.

Tượng Phật đản sinh: Tượng này được chế tác nhiều loại khác nhau bằng tượng gốm ở Biên Hoà – Thủ Dầu Một. Đặc trưng của pho tượng nầy là tượng Ngài đứng trên một đài sen, một tay chỉ lên trời, tay kia chỉ xuống đất. Chi tiết biểu thị Phật trong hình tượng là hai tai có thùy châu dài theo lối hiểu “tai dài như tai Phật”. Trong những pho tượng tạc bảo lưu đến nay, sự tuân thủ vào quy pháp tạo hình cũng không thống nhất: chẳng hạn: pho tượng đức Thích Ca Đản sanh tại chùa Hóc Ông Che thì tay phải chỉ lên trời; còn pho tượng lưu hành tại chùa tân Quang (Hoá An / Biên Hoà) thì ngược lại, tay trái chỉ lên trời. Tính chất không nguyên tắc này cũng thấy trong những pho tượng gỗ, tượng đồng ở các ngôi chùa miền Nam. Về sau từ thập niên 60 của thế kỷ XX. Trong những loại tượng đúc thành khuôn bằng thạch cao hay bằng xi măng, thì mới phổ biến hàng loạt những pho tượng “tay mặt chỉ lên trời”.

Những pho tượng nầy đều dựa theo ý niệm “trụ như sơn” chú không theo lối “hành như phong”. Ở những pho tượng Phật đản còn lưu hành tại miền Nam Việt Nam hiện nay, sự tuân thủ nguyên tắc đồ tượng cũng được áp dụng trong những loại tượng khác. Tượng Phật Tuyết Sơn (thời gian tu khổ hạnh) cũng có những nét đặc sắc, mang tính chất hiện thực khá rõ nét, cho thấy rõ cuộc sống khổ hạnh của con người quyết tìm cho ra một lối thoát để giải thoát của mình và cho chúng sanh; da bọc xương, các cơ ở tay, ở chân, ngực đã teo lại, để lồi lên những ống xương, khúc xương và cả những đường gân, nhưng dáng ngồi thì vẫn tự nhiên trong thế tĩnh toạ, thiền định.

Nghệ thuật tạo hình nầy mang một sắc thái tuyệt diệu: ngày trước những nghệ nhân điêu khắc không học về giải phẫu học cơ thể, tuy nhiên họ vẫn dựng lên những pho tượng chuẩn xác và sâu sắc đến như vậy được. Còn rất nhiều pho tượng độc đáo khác; chẳng hạn như những tượng công chúa nhà Lý ở chùa Lý Quốc Sư, Hà Nội, tượng Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác ở làng Kiêu Kỹ, Gia Lâm, Hà Nội, tượng Nguyễn Công Vệ ở xã Đồng Minh, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Trong thời đại Lý Trần trở về sau, chùa chiền được kiến tạo khắp mọi nơi trong nước; đã có chùa tất nhiên có tượng Phật, với nhiều sắc thái khác nhau, ít thì mười tượng, nhiều thì hàng trăm tượng; chẳng hạn như tại chùa xã Đông Minh còn giữa đến nay được 112 pho tượng đủ kiểu, đủ dáng. Qua những triều đại, nếu có đủ điều kiện thống kê chùa chiền trong nước, thì trên dưới khoảng 10.000 pho tượng. Qua thời gian và biến đổi phần lớn đã hư hỏng hay thất lạc. Những điều nói trên đây cũng đủ cho thấy nghề tạc tượng gỗ tại Việt Nam đã phát triển đến mức độ nào rồi.

Tượng Di Đà Toạ Thiền: Tượng Phật này được chế tác chân phương và có phần đăng đối. Đầu có tóc xoắn ốc, giữa đỉnh đầu có nhục kế nổi cao, tai dài xuống gần vai, áo cà sa rộng trùm cà hai bả vai, cổ tròn, tay áo dài rộng. Phật ngồi theo thế kiết già trên tứ phượng toạ; chung quanh trang trí hình sen. Hai tay đặt chồng lên nhau theo thế “thủ ấn thiền định” (Dhyana mudra). Đây cũng là họa tiết và kiểu thức của các pho tượng Bồ tát Quan Âm, mà có những đường nét theo kiểu tượng hình Di Đà Tam Tôn; nhưng những ngôi chùa trong vùng lại không thấy tượng của ngài Bồ tát Đại Thế Chí. Nhìn chung, tượng đúc Phật Di Đà được chế tác theo đúng chuẩn mực, thể hiện được “tướng hảo quang minh” và “tuỳ hảo vô lượng”. Chưa thấy có đủ các tượng “tam thập nhị tướng” và “bát thập tuỳ hảo” mà kinh sách thường ghi chép.

Tượng đức Phật Di Lặc: Trong đồ tượng học, tượng Phật Di lặc là tập hợp dược thể hiện trong diện mạo hình tướng “Di Lặc lục tặc”: đầu tròn, áo hậu, ngồi bệ lập phương, y toạ, tĩnh tâm, thiền định.

Tượng Quan Âm: Những pho tượng lưu hành đều theo sáu cách thể hiện quy định (a) Quan Âm Chuẩn Đề: theo công thức thì tượng nầy có ba mặt và 18 tay. (b)Thiên thủ, thiên nhãn: đức Quan Âm nghìn tay, nghìn mắt như pho tượng ở chùa Bút Tháp. (c) Quan Âm tọa sơn: thể hiện đúc Quan Âm ngồi trên đỉnh núi. (d) Phật bà: thể hiện Phật bà Quan Âm đội mũ ni, ngồi toà sen. (e) Quan Âm tống tử: thể hiện đức Quan Âm ngồi bế đức bé, một bên có Thiện Sĩ (biểu trưng bằng hình con vẹt).

Tượng Bồ Tát Chuẩn Đề: Trong đồ tượng, xét về hình tướng của Bồ tất Chuẩn Đề không khác gì so với Quan Thế Âm Bồ Tát. Pho tượng thường trình bày nhiều tay: có tượng 6 tay, có tượng tay, có tượng 18 tay, biểu trưng cho công năng trong từng giai đoạn và trường hợp hành trì. Tại chùa Hóc Ông Che, pho tượng Bồ Tát Chuẩn Đề lại thêm nhiều tay nữa, ngồi kiết già. Tại một số chùa khác thì đài toạ và tư thế có hai loại tượng khác nhau: Một loại trình bày Chuẩn Đề cỡi công (gọi là Khổng Tước tọa); loại thứ hai gọi là Chuẩn Đề Lục giác toạ. Nếu so với quy pháp đề tượng chính thức của Ngài Chuẩn Đề thì các pho tượng Chuẩn Đề ở những chùa chiền Việt Nam có phần được giản lược hơn. Những trì vật thông thường là Nhật Nguyệt Quan Âm.

Địa tạng Vương Bồ tát: Trong tập hợp những loại đất nung về đồ tượng đúc Địa tạng Vương Bồ tát được phân chia ra làm hai loại chính: Loại thứ nhất là tượng ngồi trên ngai, chung quanh có các thị hầu oai nghiêm; loại thứ nhìn ngồi trên con thanh sư, mỗi biểu trưng cho việc hành trì chánh pháp. Cả hai đều có những điểm chung nhất trong nghệ thuật tạo hình: đầu đội mũ Tì Lư (hay Thiên sứ Tì Lư), toàn thân khoác Y bá nạp, một tay để ngửa trước bụng, trên có một Hồ bình hay Bửu bát; tay kia giơ cao lên; ngón áp út khuyên tròn lên ngón cái. Phật thoại ghi: Tướng pháp này biểu trưng cho ấn thí vô uý. Ngoài ra, một số tượng biểu trưng cho “ấn an uỷ”. Trong một số đồ tượng khác, tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát còn có hai đệ tử theo hầu: Mẫn Công và Đạo Minh. Một số tượng khác thì còn thêm Chủ Mạng Quy Vương. Trong nhiều tượng đất nung về pho tượng này thì gậy tích của ngài Địa Tạng Vương lại thấy ở tượng của Chủ Mạng Quỷ Vương; trong khi đó trái châu biểu hiện cho thần lực của Ngài thì thấy ở pho tượng Mẫn Công. Giải thích điều nầy, Pháp Thoại ghi: Hình tướng Địa Tạng Vương ở đây là một trong 6 trường hợp hoá thân của Ngài, được gọi là Lục Địa tạng. Lục địa tạng là: Đàn Đầu Địa Tạng, Bảo Châu Địa Tạng, Bản Ấn Địa Tạng, Trì Địa Địa Tạng, Trừ Chướng Địa Tạng và Nhật Quang Địa Tạng).

Tượng La Hán: Song song với việc tạc tượng Phật, những ngôi chùa Việt nam lại còn có những tượng A La hán và Tôn giả. Chủ đề của những loại tượng nầy khá rộng rãi. Có đến 18 vị La hán và mỗi vị mang một cá tính khác nhau. Tính chất điêu khắc cũng không bị gò bó trong những khuôn khổ nhất định. Tính chất sáng tạo được phát triển qua những bức tranh này. Tượng đức La Hầu La, con của đức Thích Ca Mâu Ni cũng được thể hiện qua những hình tượng khác nhau. Tuy là những nhân vật nước ngoài, nhưng những nghệ nhân Việt Nam đã khéo Việt Nam Hoá với những đường nét, cử chỉ và khuôn mặt gần với người Việt hơn.

Tượng La Hầu La đội khăn, mặc áo cà sa, đi hia, cầm thiền trượng ngồi trên tảng đá lớn. Nội dung dựa theo một cốt truyện được ghi chép truyền tụng. Những tượng khác của Thương Na Hoa Tư, của Phunadasa, của Ma Tư Mật cũng mang nhiều tính chất truyền kỳ và tư thế sống động, tự nhiên.

Tất cả đều đạt được một mức độ sáng tạo cao độ. Hình tướng của các bộ tượng La Hán ở tập hợp tượng đất nung, hầu hết được biểu hiện dưới dạng Thinh Văn Hình. Biểu tướng nầy còn gọi là Tỳ Kheo Hình, tức là có hình tướng chiếu theo hình tướng của đức Bổn Sư Thích Ca khi còn tại thế; tuy nhiên tóc không xoắn mà đầu cạo trọc, đỉnh đầu không có nhục kế, áo hậu có dây thắt lưng. Nói chung, hình tướng La Hán có phần thoát sáo, và trong chừng mực nào đó, đã thoát khỏi những nét đặc trưng nhân dạng của người Tây Vực hay Trung Hoa, mà lại có nhân dạng Việt Nam khá rõ nét.

Ở nhóm tượng nầy thường có hai loại: ngồi trên ngai và cưỡi thú.nhưng dù thuộc thể loại nào chăng đi nữa, thì hình tướng cũng có phần hiện thực hơn so với các tượng thuộc nhóm Phật hình, Bồ Tát hình, hay những nhóm tượng thuộc Thiên Vương, Hộ Pháp, Thiện Hữu,Ác Hữu, Kim Cang, thường được gọi chung là Thiên thần Hộ Pháp.

Tứ Thiên Vương: Tứ Thiên Vương còn được gọi là Hộ thế Tứ Vương là hình tướng tiêu biểu cho Thiên Vương Hình. Cả bốn vị đều ngữ ở cõi trời “Tứ Thiên Vương Thiên” (Caturmaha Rajakasika) thuộc về cõi trời dục giới; lưng chừng trên ngọn núi trung tâm vũ trụ gọi là “Tu Di Sơn”, thấp hơn cõi trời Đao Lỵ của Đế Thích. Tứ Thiên Vương là ngoại thần của Đế Thích có trách nhiệm thống quản cõi trời theo 4 hướng: Trì Quốc Thiên Vương (Virudka) (Hướng đông); Quảng Mục Thiên Vương (Viruphaka) (Hướng tây;) Tăng Trưởng Thiên Vương (Dhrtarastra) (Hướng nam); Đa Văn Thiên Vương (Dhananda) (Hướng bắc). Tứ Thiên Vương đã từng nghe đức Phật thuyết pháp kinh Đại Thừa và cũng đã nguyện độ trì Tam bảo. Do vậy, mà các chính điện chùa chiền đều có tượng Tứ Thiên Vương. Biểu tướng của các tướng Thiên vương là một tướng nhà trời oai nghiêm: đi giày trận, mặc áo giáp, đầu đội kim khôi, tay cầm bửu bối; đàn tỳ bà, bảo kiếm,vòng kim cang, ngọc châu, che dù, có con “hoa hồ điêu”. Đó là hình tướng phổ biến trong các tượng thuộc đề tài nầy cũng như trong điệu múa “Tứ Thiên Vương” ở cung đình Huế. Một số làng miền Nam cũng theo nghi lễ như vậy. Tuy nhiên, ở đây, các loại bửu bối đã được giản lược bớt, chẳng hạn như mũ kim khôi được thay bằng mũ “ngũ Phật” với hình 5 cánh sen.

– Bát Bộ Kim Cang: Đây là các vị Kim Cang lực sĩ (Vajrapani) cũng được gọi là Kim Cang Thần; thường chỉ chung các vị thần cầm chày Kim Cang (như Kim Cang Thủ, chấp Kim Cang) biểu hiện uy thế lớn lao, bảo vệ Phật pháp ở khắp tám bộ chúng (Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Khần Na La, Ma Ha La Già). (Theo Đoàn Trung Còn). Nghiên cúu kỹ những đồ tượng đất nung và đồ gốm cải tiến, thì những vị Kim Cang Thần được chế tác với dạng các võ tướng: đầu đội kim khôi, mình mặt áo giáp, vai có phong đai, tay cầm hoa sen, ngọc châu… Tuy là Thiên Hình tướng như bát bộ Kim Cang đều có diện mạo thanh tú, khuôn mặt hiền hậu, phúc đức. Điều này khác với vẻ oai vệ và dữ dội của các loại tượng Kim Cang khác.

Những vị Hộ Pháp (Dharma Pala): Những vị Hộ Pháp Thần cũng có hình tướng oai vệ và trang nghiêm: mặc áo giáp, đội kim khôi, có phong đai, đi giày trận, tay cầm chày kim cang, chống mũi nhọn vào miệng một con rồng ẩn trong mây. Đây là hình tượng của Vi Đà (Skanda)- một vị thần có nguồn gốc Bà La Môn giáo. Theo truyền thuyết thì chức năng của chư Hộ Pháp là bảo hộ chư thần của tôn giáo này đã được Phật Giáo đồng hoá thành một thần Hộ Pháp. Thường thờ mặt trước của chùa chiền, miếu vũ.

Thiện Hữu và Ác Hữu: Hai vị thần Hộ Pháp nầy cũng rất phổ biến trong tập hợp những thể loại tượng đất nung, tượng gỗ ở các chùa. Phật Thoại viết: Thiện Hữu và một thái tử, tiền thân của Đức Phật Thích Ca, đã chấp nhận mọi sự thử thách, để xuống tận Long Cung, tìm viên Ngọc Như Ý đem về để ban phước lạc cho dân chúng. Ác hữu là tiền thân của Đề Bà Đạt Đa (Devadatta); cũng là một hoàng tử cùng thời với thái tử Thiện Hữu, nhưng Ác Hữu thì lại thường có lòng ganh ghét, tìm đủ cách để ngăn cản Thiện Hữu làm việc thiện. Vào thời Phật Thích Ca giáng thế, Đề Bà Đạt Đa là con nhà chú của đức Phật Thích Ca. Ông là một người có tài, nhưng lòng đố kỵ và ngạo mạn. Về sau, ông xuất gia, nhưng lại tự cho mình chẳng kém gì đức Phật, nên chính ông đã gây những bất hoà trong thánh chúng, toan tách rời hẳn ra để lập ra một Giáo hội khác. Ông đã sai người lén tìm cách để giết Phật, nhưng khi người đó đến nơi thấy cung cách siêu thoát của đức Phật thì quay lại quy y. Đề Bà Đạt Đa cũng thả thú dữ để làm hại Phật nhưng các thú đó cũng cảm đức hạnh của đức Phật nên quay đầu trở về… Tuy nhiên, Đề Bá Đạt Đa “vốn có nhiều công đức” cho nên được Phật thọ ký cho thành Phật, hiện là Thiên Vương (Devaradja) của cõi Thiên đạo. Theo kinh Niết Bàn thì: Tùy thuận thế gian, Đề bà Đạt Đa thị hiện ra việc hoại tăng, hoá tác ra nhiều hình mạo sắc tướng; đó là vì giúp cho Phật chế định giới luật. (Theo Phật Học Từ điển- Đoàn Trung Còn – trang 550). Có lẽ để biểu đạt về “sự hoá tác ra nhiều hình dạng sắc tướng” mà cụ thể là một kẻ hung ác, cho nên hình tướng của Ác Hữu được thể hiện là một Thiên Tướng có mặt mày hung dữ.

Tiêu Diện Đại Sĩ: Đại Sĩ là một từ tôn xưng đối với các bậc Thanh văn, Bồ Tát. Tiêu Diện Đại Sĩ có hình tượng khuôn mặt cháy nám. Theo truyền thuyết Phật Giáo, Tiêu Diện Đại Sĩ là một trong các thị hiện (tức là Hoáthân) của đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Theo “Tam thập nhị thân” (32 cách hoá thân) của đức Quan Thế Âm Bồ Tát, thì hình tướng Tiêu Diện Đại Sĩ biểu thị cho một Quỷ Vương, mà truyền thuyết nói đến vị chúa của Dạ Xoa (Yasha). Dạ Xoa là một loài ác thú có mặt ở dương thế, trên trời và âm phủ, tùy trường hợp hành trì. Hình tướng Dạ Xoa dữ tợn, kỳ quái, đầu gồ lên 3 u thịt, nhiều tay, nhiều mắt, nhiều đầu, nanh nhọn, mắt lồi, tai thú. Phật Thoại kể: Để có thể hoá độ cho các vong hồn nơi cõi Diêm Phù, cho nên đức Quan Thế Âm Bồ Tát đã hoá thân theo dạng Quỷ hình, thì dễ bề dung hoá hơn. Chúa quỷ Dạ Xoa thống quản các vong hồn. Khi đó đức Quán Thế Âm Bồ Tát bèn hoá thân thành một chúa quỷ, có hình dáng kỳ quái hơn, để tỏ uy lực của mình. Bồ Tát nhấc ngọn Tam sơn lên, đặt trên đầu để thị oai. Tuy nhiên, chúa quỷ vì quá ngạo mạn, nên lại phun lửa để đốt cháy đối thủ. Ngọn lửa chỉ là “cháy nám mặt” vị Bồ tát hoá thân cứu khổ, cứu nạn. Danh xưng Tiêu Diện Đại Sĩ có từ đó.

Chủ mạng Quỷ Vương: Theo bản Kinh Địa Tạng thì: Chủ Mạng Quỷ Vương là một trong nhiều Quỷ Vương ở trong núi Thiết Vi, cùng chung nơi trú ngụ của Diêm La Vương. Các Quỷ Vương và Diêm La Vương đã nương theo oai thần của Phật và Bồ tát Địa tạng lên cung trời Đao Lợi nghe Phật thuyết pháp. Nhân dịp này, Chủ mang Quỷ Vương đã phá nguyện quy y Phật, và ra sức tu hành cứu độ chúng sanh trong cõi Diêm Phù. Do đó, Chủ Mạng Quỷ Vương đã được đức Phật thọ ký.Đức Phật bảo Điạ tạng Vương Bồ Tát: “Chủ Mạng Quỷ Vương là một bậc Bồ tát Đại Sĩ vì lòng từ bi phát nguyện hiện thân làm Quỷ Vương. Trải 170 kiếp, sẽ thành Phật hiệu Vô Tướng Như Lai”. Như vậy, Chủ mạng Quỷ Vương là vị Bồ Tát hoá thân dưới dạng Quỷ. Trong nghệ thuât tạo hình bằng gốm nung, Chủ Mạng Quỷ Vương thường được chế tác dưới dạng môt Quỷ Vương: cầm trì vật là tích trượng nhằm biểu thị phò tá vị Giáo chủ cõi u minh.

Thần Linh: Về những vị thần linh nói chung, trong đồ tượng học thường thể hiện đề tài tuân thủ khá nghiêm túc trong những loại tượng gỗ, đất nung, sành sứ. Đây là: tượng Ngọc Hoàng, 10 vị Minh Vương và các nữ thần. Các pho tượng Ngọc Hoàng, Minh Vương được chế tác trong tư thế ngồi nghiêm chỉnh trên ngai, hai tay co trước ngực, cầm hốt. Về trang phục thì đầu đội mũ bình thiên, mặc long bào, đai vàng. Những vị phụ tá: như Nam Tào, Bắc Đẩu, 2 Phán Quan được chế tác theo thức văn quan. Tư thế đứng thẳng, đầu đội mũ đề bá, hai dải mũ thẳng xuống vai, đi hia, đai vàng. Các nữ thần: chế tác dạng Thiên mẫu Hình. Ngồi trên ngai, đội mũ bình thiên, mặc mãng bào, phủ yếm cổ hình hoa sen, đi hài thêu. Một số tượng khác thì mặc bì hay xiêm y, mũ phụng, tay vịn đai ngọc, bàn tay đỡ thẻ bài.

Bệ tượng: Ngoài ra, nghệ thuật chạm khắc ở những chùa chiền lại còn thể hiện qua những đường nét trang trí ở những bệ tượng và mô hình đắp chung quanh tượng dùng làm bối cảnh. Bệ tượng Phật nghìn tay nghìn mắt tại chùa Bút Tháp được đánh giá là đẹp nhất, tinh vi nhất và công phu nhất. Bộ nầy gồm nhiều tầng chống lên nhau; dưới cùng là đế vuông, trên là đầu rồng đội toàn sen.P hần trang trí của phần trên có mặt tròn cuả chiếc đế được biến thành biển cả với những đường sóng nước đang cuồn cuộn.

Trong những hoạ tiết trang trí, có những loại thủy tộc như tôm, cua, ốc, trai, rùa… đều ngoi đầu lên cao. Từ phía giữa của vùng sóng nước trùng điệp này, nhô lên môt con rồng, đội toà sen, đưa đức Quan Thế Âm vượt biển (Quan Âm quá hải). Nhìn kỹ, dường như phải chịu đựng nhiều trọng lượng, cho nên đầu rồng hơi biến dạng, mồm rộng thêm ra, mặt nhăn, tuy nhiên vẫn toát ra sự thành kính, phục tùng.

Để có thể hoàn tất được công trình điêu khắc tinh xảo này hẳn là các nghệ nhân thời trước đã giàu kinh nghiệm chạm khắc, thành những nguyên tắc vững chắc mà về sau trở thành giá trị cơ bản trong nghệ thuật tạo hình. Chẳng hạn như: kiểu “nhất diện tam trùng” thường thấy nhất, thì mặt có 3 khoảng cách bằng nhau: chân tóc đến gốc lông mày, gốc lông mày đến mũi, mũi đến cằm); môt kiểu khác được mệnh danh là “nhất diện phân lưỡng kiện” trong điêu khắc, nghĩa là; hai vai thường dài gấp đôi chiều dài của mặt; kiểu “toạ tứ” tức là chiều cao của tượng ngồi cao bằng 4 lần chiều dài của mặt.

Trong thời Lý Trần về sau, Phật Giáo được hưng thịnh, nền điêu khắc cũng chịu nhiều ảnh hưởng với những đường nét khá đặc thù. Những tác phẩm điêu khắc bất cứ loại hình nào cũng có những sáng tạo khá phong phú, sâu sắc, ghi được nét tiêu biểu của giai đoạn này.

Có thể tìm hiểu cách điêu khắc và trang trí sau đây:

Trường hợp điển hình:

Chùa Phật tích

Ngôi chùa này nguyên trước có tên là Thiên Phúc Tự hay Vạn Phúc Tự. Chùa nằm trong địa phận của xã Phật Tích, huyện Tiên Du, trên sườn núi Lạn Kha; ngày nay là xã Phượng Hoàng, huyện Tiên Du, tỉnh Hà Bắc. Những tài liệu và di chỉ để lại cho biết như sau:

Chùa Phật Tích được xây dựng từ đời vua Lý Thánh Tông vào năm Long Thụy Thái Bình năm thứ tư (tức là năm 1057), có tháp cao, tượng Phật lớn và quần thể của chùa có đến 100 toà nhà. Mọi phí tổn đều do nhà vua cung cấp. Theo tài liệu của Trần Trọng Kim thì vua Lý Thánh Tông thường đến lễ Phật và cho kiến thiết, trang trí thêm cho ngôi chùa nhiều lần sau đó. Ngọn tháp trước chùa được xây dựng trong một vị trí tôn nghiêm,rất cao mà quan chưởng lý đại thần Nguyễn Thế Xưởng hồi đó đã mô tả là Tháp dựa lên những tầng mây, cao vun vút. Đằng sau chùa có xây lên hai gian phòng lớn dùng làm long từ và thạch thất là những vị thiền sư nổi tiếng trong vùng thường đến để giảng kinh, thuyết pháp. Bên cạnh chùa là ngôi miếu Tiên Chúa, thờ bà Trần Ngọc Am.

(a) Trong những thể tài điêu khắc thì tượng Phật Thích Ca vẫn là quan trọng nhất. Những tượng này thường thể hiện năm giai đoạn trong đời ngài.

Tượng Phật Thích Ca ở ngôi chùa lịch sử này ngồi trên toà sen mười tám cánh. Tượng cao 1,87 mét tính chung cả bệ tượng là 2,77 mét. Đức Bổn Sư ngồi kiểu kiết già hai bàn chân để ngửa. Bên ngoài mặc áo pháp 3 lớp. Trên tượng thể hiện đủ 32 tướng tốt: u trên đầu, tóc cuốn khu ốc, trái tai dài, cổ cao 3 ngấn… Tượng này tương đối khá cao; toàn nét rạng rỡ, điềm đạm, thanh tú đã toát ra vẻ thoát tục. Tượng Phật này được xây bằng đá, chiều cao đến 1,80 mét, tính cả bệ đá thì lên đến 3 mét. Đây là một trong những pho tượng Phật nổi tiếng của chùa chiền miền Bắc được bảo lưu kỹ càng cho đến ngày nay: đức Thích Ca đang ngồi thiền định dưới gốc cây bồ đề, trên một toà sen 108 cánh; bệ tượng lại có nhiều hình rồng, phụng, sóng, nước và những hoa văn. Những nét chạm trổ rất tinh vi, sắc sảo, tuy đã trải qua nhiều thế kỷ cho đến nay.

Bệ tượng chùa Phật Tích là điển hình cho nghệ thuật thời nầy. Bệ tượng đắp theo hình bát giác. Phần dưới trang trí hình sóng nước với 6 đợt sóng đều đặn được sắp chồng lại với nhau. Phần trên có 3 tầng, trang trí rất tỉ mỉ. Trong mỗi tầng đều có hình hoa sen 32 cánh mở rộng ra và sắp đều. Mặt thẳng của tượng có những mô hình nhạc công, vũ công đang múa hát, đánh đàn, thổi kèn… Hình mây với những đường gợn sóng song song với nhau. Đa số là hình sóng nước và hình những đám mây đang bay. Những vòng tròn hay hình đa giác cũng được điểm xuyết đều đặn hay tạo thành những khung bao quanh hình đồ chính.

b) Tượng Quan Âm được xem là một trong những mô hình phổ biến nhất tại các chùa chiền. Tượng nầy thường có năm cách tả khác nhau:- Phổ biến nhất là đức Quan Âm Chuẩn Đề: Tượng có ba khuôn mặt và mười tám cánh tay, nói lên tính đa dạng và biến ảo của Ngài.- Loại hình khác là tượng thiên thủ thiên nhãn cũng trong ý nghĩa như trên.- Loại tượng Quan Âm tọa sơn.- Loại tượng đức Quan Âm ngồi trên toà sen.- Tượng và chuyện tích được vẽ về Quan Âm Thị Kính. Ngoài ra, trong những biểu trưng thờ phượng tại các chùa chiền Việt Nam còn thấy những vị khác: Bồ Tát, La Hán, Tôn Giả, Thiên Vương… Phần sau cùng là những sư tổ, những người có công đức trong thời kỳ xây dựng đầu tiên hay tu bổ chùa chiền.

(c) Tượng Kim Cương

Những tượng Kim Cương biểu hiện cho những Thần tướng nhà trời được giáng xuống trần trong nhiệm vụ bảo vệ đức Phật. Phần nhiều tại những chùa Việt Nam, Kim Cương thường có tám vị gọi là Bát Đại Kim Cương. Riêng tại chùa Phật Tích chỉ có một vị, nhưng nói lên đầy đủ những nét uy nghi của nhân vật huyền thoại này. Pho tượng này trải qua bao nhiêu triều đại, đến nay đã không còn được toàn vẹn. Đây là hình của một võ quan, mặt phương phi, râu dài, trong tư thế sẵn sàng chiến đấu chống ma quỷ. Trên áo giáp của vị thiên thần này có nhiều nét hoa văn rực rỡ, hùng tráng, lẫm liệt. Ngoài ra, giáo sư Bezacier, viện trưởng của trường nầy cũng đã tìm thấy được một số di tích quan trọng khác: tượng sư tử, tê giác,voi, trâu, ngựa… nằm trên những nền đài hoa sen. Ngoài ra cũng tìm thấy được những tượng hình của những vũ nữ và nhạc công chạm trổ cực kỳ tinh xảo. Những vết tích khác thì nay đã không còn thấy nữa. Ngày nay, chùa Phật Tích được tu bổ, nhưng chỉ là một ngôi chùa nhỏ và chưa có vị trụ trì. Tượng Bát Đại Kim Cương cũng tìm thấy ở chùa Long Đọi trong địa phận làng Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Tất cả những tượng nầy đều có chiều cao 1,6m trông như những võ tướng mình mặc áo giáp, ba lớp, hai vạc, có đai lớn. Ngang đai có thắt gươm bản lớn. Một trong những thể tài kiến trúc và điêu khắc đời nhà Lý, phải nói đến Thần điểu như biểu trưng cho sức mạnh vô địch đang trên đà vươn lên cao vút.

(d) Thần điểu:Những nhà khảo cổ Việt Nam và Pháp thuộc trường Viễn Đông Bác Cổ đã tìm thấy hình tượng nầy ở chùa Phật Tích mà hiện nay vẫn còn bảo quản tốt và được đem ra trưng bày ở Viện Bảo Tàng Lịch sử Việt Nam tại Hà Nội. Đây là hình ảnh của một loại Thần điểu đầu người, mình thú, hai chân mạnh và móng chân ngọn hoắc; trên mình có đeo chiếc trống cơm trước ngực. Theo nhận định chung thì Thần điểu biểu trưng cho khả năng chinh phục mọi thế lực tàn bạo, còn chiếc trống là tiếng báo động cho mọi người biết được hiểm họa cần tránh và điều thiện cần làm. Những Thần điểu có chiều cao trong khoảng từ 40 cm cho đến 60 cm; riêng ở chùa Bút Tháp còn lưu giữ một hình Thần điểu khá tinh vi vào đời Lý Trần (?) cao khoảng 90cm. Thần điểu cũng thường được trang trí phần ngoài ở cửa những ngôi tháp cổ, cũng trong ý nghĩa vừa nói trên. Thần điểu cũng còn tìm thấy ở chùa Chương Sơn, Đọi Sơn, nhưng đến nay thì đã không còn được nguyên vẹn nữa. Theo nhận định của những nhà khảo cổ thì đây là kiểu phối hợp 2 nghệ thuậ tChiêm Thành và Trung Hoa. Nhận định chung của những nhà nghiên cứu cổ học thì thần điểu đã mô phỏng theo như tượng thần Kinnaricủa Chiêm Thành, được dựng lên trên nhiều tháp cổ vào thế kỷ thứ VI sau Công Nguyên. Tuy nhiên, một số cơ cấu khác thì lại ngã về màu sắc Trung Hoa, như đầu và hai cánh giang rộng ra. Một trong những hình tượng khác được đề cập nhiều là tượng sư tử tìm thấy trong nghệ thuật trang trí tại chùa Bà Tấm thuộc địa phận của làng Đức Thắng, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Tài liệu còn giữ lại tại Viện Bảo Tàng Hà Nội ngày nay là một đầu sư tử đang nhe răng; lông sư tử hình xoáy và móng vuốt được thể hiện qua những đường cong rất sinh động.

(e) Tượng Kỳ Lân: Pho tượng Kỳ Lân này làm bằng đá màu nâu nhạt. Đây là một trong những công trình kiến trúc nổi tiếng ở khu vực thành Thăng Long thời đó. Kỳ Lân được đặt trên một trụ cao hai tầng, có chạm khắc hình sóng nước và hình kỷ hà. Có những bậc thang lên xuống ở trụ đá nầy. Nhìn chung lại, trong nghệ thuật điêu khắc thời đại này đây một trong những nét tiêu biểu của nền nghệ thuật nầy là nhiều hình Kỳ Lân dần dà thay thế cho phượng và rồng. Hình Kỳ Lân cũng được xem là hình tượng của nhiều mô hình điêu khắc trong những công trình văn hoá Phật Giáo, mang những đặc tính như sau: Mắt lồi, bờm vươn lên cao. Đuôi dài và có những đường gợn sóng. Tư thế chuẩn bị để chuyển mình về phía trước. Mọi hình thái được xây dựng khá tinh vi.

(f) Rồng là chủ đề quan trọng trong những thể loại kiến trúc. Đó cũng là nét đặc trưng trong những công trình kiến trúc, hội họa và điêu khắc, trang trí chùa chiền, đình làng hay lăng mộ, cung điện. Tuy nhiên, hình thức tạo dáng rồng mỗi triều mỗi khác. Khởi đầu từ trong tư duy thần thoại Việt Nam cũng như Trung Hoa, con rồng luôn luôn là biểu tượng tốt đẹp của sự cao cả, oai nghi. Do ảnh hưởng của triết lý âm dương, cho nên ở những mái đình chùa, lăng miếu có đắp hình tượng những dạng thức ước lệ về lưỡng long tranh châu và cũng thường trình bày trong tư thế đang cố vươn lên cao. Mỗi triều đại có những kiểu hình rồng khác nhau. Như trong thời đại Hùng Vương, thì con rồng trong trang trí trông như hình cá sấu hay cá sấu nguyên mẫu. Cho đến thời Lý thì rồng lại có dáng vóc của một con rắn được biến thành rồng, với thân hình thon dài, với những lối lượn lách nhịp nhàng, biểu trưng cho sự thanh bình, an lạc. Con rồng này trên đầu có lông nổi hẳn lên, chòm lông rộng và dài; trong miệng có ngậm viên ngọc xanh, biểu thị cho tính chất quý phái. Đến đời Trần, thì rồng lại uốn lượn, uyển chuyển nhưng lại dịu dàng hơn, thanh nhàn hơn, biểu trưng cho an bình và phát triển. Đến đời Hồ, hình rồng cũng dài nhưng lại to lớn, mập mạp hơn, như biểu tượng của những xung lực. Đến đời Trịnh Nguyễn, thì rồng có những móng vuốt nhọn hoắc, nanh lớn, sừng to, biểu thị cho một xã hội có nhiều biến đổi lớn lao, thay triều đổi họ. Sau cùng đến đời nhà Nguyễn thì rồng trở thành một tổng hợp đầy đủ cho quyền uy, nghệ thuật và sự sùng kính, thoát tục hẳn. Nói chung lại thì hình rồng của những thời đại nầy biểu hiện tính chất của từng giai đoạn xã hội. Hiện nay, thân hình rồng trông thanh tao hơn. Đầu rồng thường nhỏ, nhưng lại có bờm và râu dài. Mô hình rồng hiện tại cũng thường được lồng vào những khung hình tròn, hình hạt lệ, hình lá bồ đề, hình nửa lá bồ đề, hình chữ nhật. Bên cạnh những hình rồng, còn có những loại hình chim.

(g) Chim Phượng Hoàng: thường dữ và mạnh, chân lớn, móng nhọn, cánh ngắn trông giống như loại chim thần Garuda ở những đền tháp tại kinh đô của dân tộc Chàm trước đây. Có thể những nghệ nhân Chiêm Thành sang làm việc dưới đời vua Lý đã tạc những hình này lưu truyền cho đến nay. Những hình chim phượng hoàng cũng thường thấy ở những đền đài, cung điện thời đại Lý, Trần. Điểm khác là chim phượng hoàng ở đây có đuôi dài hơn và những chùm lông ở vòng quanh cổ cũng dài hơn. Màu sắc lông chim thường kết hợp lại với nhau rất hài hoà, uyển chuyển. Chim phượng cũng thường trang trí trong những khuôn hình vuông, hình chữ nhật, hình tròn, lá bồ đề hay trong hình giọt lệ. Tranh vẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc trang hoàng các chùa chiền, lăng miếu hay trong những phẩm vật thờ cúng, nhà cửa hay tại những điện đài. Qua những thời đại, nghệ thuật hội họa sau này đã phá ttriển khá mạnh hơn những triều đại trước. Tuy nhiên cho đến nay thì vấn đề bảo quản những công trình hội họa đã không dễ dàng như điêu khắc, kiến trúc khác. Phần thì khí hậu ẩm thấp, phần thì chiến tranh liên miên. Tuy nhiên hội họa cũng được ghi lên những hình điêu khắc, mô hình kiến trúc, nghệ thuật đồ gốm. Những hình hoa sen,múa hát, sóng nước, hình kỷ hà đều rất thông dụng trong những kiểu trình bày nầy.

Chùa Bút Tháp (T.K XVII)

Chùa Bút Tháp là một quần thể kiến trúc còn giữ lại nhiều di tích của phong cách thế kỷ XVII. Chùa Bút Tháp là ngôi chùa cổ có quy mô to lớn nhất trong hệ thống chùa chiền miền Bắc Việt Nam còn bảo lưu cho đến ngày nay.Ít ngôi chùa nào trong vùng có thể sáng kịp được về kiến trúc,điêu khắc, hội hoạ.

Tượng Quan Thế Âm Bồ tát (nghìn tay nghìn mắt):

Điều đáng nói nhất tại đây là tháp của chùa và pho tượng Quan Thế Âm nghìn tay, nghìn mắt. Theo những tài liệu còn giữ thì tượng này được tạc nên vào năm Bính Thân (1656), của những tay thợ lành nghề nhất của làng Phương xá. (Tài liệu của Hà Văn Tấn) Tác phẩm mỹ thuật nầy được cấu tạo gọn gàng, bố cục rất chặt chẽ từ trên xuống dưới; chiều cao khoảng 3,7 mét, chỗ phình rộng nhất là 2,1 mét và bề dày vào khoảng 1,15 mét. Nhìn tổng quan thì pho tượng được phân chia ra làm hay phần rõ rệt và kết dính nhau bằng nòng sắt từ bên trong. Tượng được tạc hiện lên với 11 đầu, 994 tay và 994 mắt. Hai bên má còn có thêm hai khuôn mặt khác nữa. Tuy trông khác thường nhưng không vì thế mà giảm phần uy nghi. Trên đầu đội mũ theo hình hoa sen nở, lại còn có thêm 8 đầu nhỏ nữa, xếp thành ba tầng cao vút lên như ngọn tháp. Trên đỉnh nhọn của tháp người ấy lại còn thêm một pho tượng nhỏ nữa, ngồi trong tư thế tĩnh tọa. Tất cả gần nghìn tay nghìn mắt như đã nói được xếp thành một vòng hào quang, mà trên đỉnh lại còn gắn thêm một đôi chim đầu người, trông như đang dang cánh rộng để bay xà xuống dưới. Bệ tượng có nhiều tầng, phía trên là đầu rồng đội toà sen, phía dưới là một đế hình vuông, chung quanh đều có những nét chạm trổ tinh vi hình hoa sen tám cánh; ngoài ra còn rồng, phụng, sư tử,cờ quạt, cuốn thư. Về phía bốn góc của bệ, lại còn có hình của võ sĩ nhỏ, cao khoảng 0,30 mét, như để nâng bệ tượng lên cao hơn. Phía mặt tròn của bệ tượng phác họa hình của đại dương, mà trong đó có hình những loài thủy tộc như tôm cá, ngạc ngư, ốc rùa… Mọi sinh vật trong dáng đang bơi lội tung tăng với những đợt sóng đang cuồn cuộn đẩy về phía trước. Tuy đã mất những góc cạnh sắc bén nhưng không vì thế mà giảm mất giá trị cảnh trí. Từ giữa biển cả, một con rồng lớn đang nhô đầu lên cao, đội toà sen đưa đức Quan Thế Âm vượt trùng dương. Gần đây có nhiều đợt trùng tu, bổ khuyết, nhưng không theo được những đường nét cũ, nên đã trở nên lạc lỏng, chắp vá, thiếu mỹ thuật.

Maspéro viết: Tượng đức Quan Thế Âm Bồ tát có 6 kiểu: tượng Quan Âm Chuẩn Đề có 3 mắt và 18 tay cầm pháp bảo; tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn tạc theo điển bà Diệu Thiện nghìn tay, nghìn mắt; tượng Quan Thế Âm toạ sơn ngồi trên núi đá; tượng Quan Thế Âm đội mũ ni hoặc đứng, hoặc ngồi trên toà sen cầm lọ nước cam lộ và cành dương liễu; tượng Phật Bà Quan Âm ngồi toà sen có đầu yêu quái đội trên toà sen tạc theo điển Quan Âm bắt giống yêu quái hay hiện ra làm người lái đò, quấy nhiễu hành khách qua sông; tượng Quan Âm tống tử tạc theo điển bà Thị Kính bị Thị Mầu đổ oan tình, nuôi trẻ thơ(con vẹt là hậu thân của Thiện Sĩ).

Chuà Tây Phương (trùng tu: TK XVII)

Chùa Tây Phương tương truyền là được xây vào thế kỷ thứ III, nhưng đã được trùng tu nhiều lần. Chùa Tây Phương ở núi Câu Lậu ngoại thành Hà Nội cũng được ghi vào “di tích lịch sử” (28/4/1962). Kiến trúc chùa khá rộng lớn, theo hình chữ “Tam” ba lớp xếp nhau, làm theo kiểu hai tầng mái chồng diêm và có đao góc cong vút lên. Toàn thể ngôi chùa đều xây bằng gạch Bát Tràng để nguyên, không tô vôi; chung quanh có nhiều cửa sổ hình tròn, bố cục theo nguyên lý thái cực, âm dương như một số chùa tại huyện Thạch Thất. Đáng chú ý nhất về phương diện kiến trúc theo mô thức Hậu Lê là những sà kèo trên các mái đều được chạm trỗ rất tinh vi, hài hoà; giữa ba nếp nhà đều có khoảng cách nhỏ, tại được không gian ngăn cách thêm phần quang đảng. Theo những tài liệu còn lưu lại thì ngôi chùa nầy được xây lên từ năm 219, nhưng sau đó thì lại được trùng tu nhiều lần. Thật khó phân biệt được các nét trùng tu từng thời kỳ. Điều đáng nói là những lần kiến trúc sau vẫn cố theo nét điêu khắc, kiến trúc của lớp trước. Trong một tấm bia cổ dựng lên ở phía Tây Nam của chùa còn lưu lại cho đến nay, có nhắc đến lần trùng tu vào tháng chín năm Đức long thứ 4 (1632) đời vua Lê Thần Tông. Nhưng khó ước đoán là trùng tu những cơ phận nào. Cũng theo tài liệu, đến năm 1636 lại thêm môt công trình tu tạo đúc chuông và tạc tượng. Cho đến đời Tây Sơn, vào năm Cảnh Thịnh thứ 2 (Giáp dần 1794), dân chúng trong vùng lại tu bổ thêm. Đây cũng là lần sửa sang sau cùng. Cảnh quan còn đến hôm nay, cũng kể từ niên hiệu đó.

Điêu khắc: Đi vào trong, chùa có 62 pho tượng bằng loại gỗ mun và kiền kiền, mà những điêu khắc gia Phật Giáo đánh giá vào bậc nhất trong toàn thể công trình điêu khắc Phật Giáo Việt Nam.

Tượng Phật Tuyết Sơn: Ngoài ra cũng cần đề cập đến tượng đức Phật thời Tuyết Sơn. Thật ra, tại miền Bắc Việt Nam nhiều chùa chiền đắp tượng Tuyết Sơn, tức thời gian Thế Tôn tu khổ hạnh. Cũng như tượng La Hầu La đã dẫn, tượng này đã mất nét Ấn Độ, mà được Việt Nam hoá đi nhiều,từ khuôn mặt, đến y trang, phong thái. Nhìn chung, tượng tạc hình dung của nhân vật đã trọng tuổi, gầy gò, ngực trơ ra nhiều xương sườn. Tư thế ngồi theo kiểu “Thức Mạn Di”, tức là một chân xếp bằng lại; một chân co lên; tay phải để trên đầu gối đang co; tay trái để trên đầu gối xếp bằng. Mắt sâu trũng xuống, nhưng toát ra vẻ cương nghị. Đôi tay dài là một trong biểu trưng toàn bộ 32 tướng tốt. Nhà nghệ sĩ khi tạc tượng đã tập trung vào hình tượng đức Thế Tôn đang nhập định. Mọi vật chung quanh dường như không còn thấy nữa, tất cả trong tư duy tham thiền. Nhìn chung, đây là công trình điêu khắc nổi tiếng, hiếm có và mang nhiều sắc thái độc đáo. Tượng Quan Âm tại chùa Bút Tháp cao đến 3,7 mét, được xem là pho tượng lớn nhất thờ nội điện trong hệ thống chùa chiền tạiViệt Nam.

Tượng La Hầu La: Đáng nói nhất trong các công trình điêu khắc trên đây là tượng đức La hầu La (Rahula) (tức con trai của Thái tử Tất Đạt Đa) và tượng Phật Tuyết Sơn (tức tượng đức Thích Ca trong thời kỳ tu khổ hạnh). Tượng đức La hầu La, vốn người Bắc Ấn, nhưng khi thể hiện lại đã được Việt Nam hoá. Đây là khuôn mặt của một nhân vật trung niên, với nhiều tướng tốt như: mặt hơi bẹt, đôi mắt khép kín trầm ngâm, môi mỏng, tai dài. Cũng như tượng Tuyết Sơn, tượng nầy gầy gò, ốm yếu, với mang áo rộng choàng chung quanh. Những nếp áo được chạm với đường nét tinh vi, phất phơ trước gió. Đức La Hầu La trong tư thế chuẩn bị lên đường; một tay chống gậy hướng phía trước; tay kia đặt trên đầu gối. Khuôn mặt trầm tư khổ hạnh, hình dáng khi trở về già. Bên cạnh ngài là một chú hươu sao, nằm quay đầu, mặt ngẩng lên trên; toàn cảnh trông thật sinh động. Toàn cảnh mô phỏng theo một bức tranh cổ cũng được treo trong chánh điện chùa Tây Phương.

Bezacier viết: Pho tượng của đức La Hầu La (Rahula), con của thái tử Tất Đạt Đa, tức đức Thích Ca Mâu Ni đã theo cha tu hành và đắc đạo. Pho tượng nầy đã được chuyển hoá theo sắc thái Việt Nam với những đường nét thần tình, từ nét mặt đến nếp áo, y hệt như một cụ già Việt Nam đang ngồi trầm tư mặc tưởng. Hai bàn tay gầy guộc, trông rõ từng đốt xương, một tay cầm gậy, còn tay kia đẻ trên đầu gối, diễn đạt thế ngồi thật thoải mái của một vị tu sĩ già nua.

Tượng Kim Cương: Trong số những tượng này thì to lớn nhất là Bát Đại Kim Cương và tượng Vi Đà Thiện Tướng Quân. Chiều cao vào khoảng ba mét, được sắp đặt chung quanh góc chùa trong thế phù trì. Những nghệ nhân nổi tiếng tại huyện Ba Vì đã chăm lo điêu khắc; họ đã căn cứ vào đức tính và chức năng của mỗi vị Thần, để từ đó, bố cục, trang trí những đường nét sao cho hợp lý về cử chỉ cũng như trang phục cho từng vị một. Những tay thợ khéo cũng đã nghiên cứu từng binh khí, giáp trụ, từng chiêu thức tiến thoái, bàn tấn trong võ thuật, tạo những đường nét sinh động, tinh vi lạ thường. Những nét chính của sự sáng tạo và nghiên cứu tâm lý này mà những pho tượng Bát Đại Kim Cương này đã trở thành mẫu mực về nghệ thuật diễn đạt dung mạo của chư Thánh. Hiện nay, tượng được ghi chép thành tư liệu cho những khuôn rập khác tại Việt Nam trong lãnh vực này. Trên bệ cao của nếp thượng điện chùa Tây Phương có ba pho tượng Tam Thếlớn, biểu trưng cho Quá khứ, Hiện tại và Vị lai của đức Phật. Những nét chạm đều hòa đồng một khuôn mẫu, mỗi đường nét thật tinh xảo, mà nghệ nhân phải bỏ hết tâm huyết, tài ba mới thực hiện nổi. Phía dưới có tượng đức Thích Ca Đản Sinh (Cửu Long), cũng theo cách trang trí trên.

La Hán: Linh động nhất trong toàn thể những công trình nầy thì phải kể đến các pho tượng chư vị La Hán. Tượng lớn bằng người thật, có tượng đứng, có tượng ngồi, ở phía tường hậu của thượng điện. Tất cả còn lại 14 pho tượng (trước kia là 18 pho); mỗi pho tượng đều biểu hiện cử chỉ, phong thái riêng, trang phục riêng.

Điêu khắc Phật Giáo Việt Nam

A- Điêu khắc Phật Giáo đời Lý:

Điêu khắc, trang trí đời Lý còn lưu lại đến nay có một giá trị nghệ thuật to lớn. Những biểu tượng Phật trong thời kỳ nầy không nhiều loại; căn cứ vào những hiện vật, di tích khai quật được còn những loại như sau: (1) Tượng Phật A Di Đà và đức Bổn Sư Thích CaMâu Ni (2) Tượng đức Quan Thế Âm Bồ Tát (chuẩn đề hay tống tử) (3) Tượng chư vị Kim Cương và Hộ Pháp. (4) Tượng đầu người hình chim (5) Tượng các con vật huyền thoại như rồng, phượng, lân và các con vật có thực như: sư tử, trâu. Những bức phù điêu và hình trang trí tượng đối khá phong phú về các mô típ. Ngoài ra còn có các cột biểu trang trí đa dạng. Trong những loại nầy, kết cấu tương và bệ tượng thờ là một hình thức quan trọng nhất của nền điêu khắc đời Lý, nếu so sánh với các triều đại sau đó. Điêu khắc và trang trí thì phụ thuộc vào thể dáng. Trong những thể tài điêu khắc thì tượng Phật Thích Ca vẫn là quan trọng nhất. Những tượng này thường thể hiện năm giai đoạn trong đời ngài. Tượng Phật Thích Ca ở ngôi chùa lịch sử này ngồi trên toà sen mười tám cánh. Tượng cao 1,87 mét tính chung cả bệ tượng là 2,77 mét. Đức Bổn Sư ngồi kiết già hai bàn chân để ngửa. Bên ngoài mặc áo pháp 3 lớp. Trên tượng thể hiện đủ 32 tướng tốt: u trên đầu, tóc cuốn khu ốc, trái tai dài, cổ cao 3 ngấn… Tượng Phật thời nầy tương đối khá lớn; toàn nét rạng rỡ, điềm đạm, thanh tú đã toát ra vẻ thoát tục. Tượng xây bằng đá, chiều cao đến 1,80 mét, tính cả bệ đá thì lên đến 3 mét. Đây là một trong những pho tượng Phật nổi tiếng của chùa chiền miền Bắc được bảo lưu kỹ càng cho đến ngày nay: đức Thích Ca đang ngồi thiền định dưới gốc cây bồ đề, trên một toà sen 108 cánh; bệ tượng lại có nhiều hình rồng, phụng, sóng, nước và những hoa văn. Những nét chạm trổ rất tinh vi, sắc sảo, tuy đã trải qua nhiều thế kỷ cho đến nay. Tượng Phật A Di Đà chùa Phật Tích mở đầu cho nền nghệ thuật Phật Giáo trong thế kỷ XI. Tượng được cấu tạo bằng đá xanh, nguyên khối cao khoảng 1,87m, tính cả bệ tượng vào khoảng 2,77m. Phật ngồi trong tư thế thiền định, hai tay đặt lòng trên khối bệ bát giác theo cấp nhỏ dần, rồi lại nở ra ở bệ đài sen. Cách thức hiện các gờ áo nổi, chạy dọc quanh thân, kéo xuống tận riềm vạt áo và quay về phía sau lưng nổi trên thân mềm mại, thắt khối ở giữa tay và bụng. Giữa phần hộp bệ bát giác và đài sen, còn có hình sư tử đội bệ khối cầu. Nhìn chung, cấu trúc của các tượng Phật đời Lý gồm tượng Phật có bệ bát giác, khối cầu sư tử, tạo nên thế cân bằng, hoà hợp và trang nghiêm. Theo Trần Trọng Kim (Phật Lục) thì: Tượng Phật trong thời kỳ này phù hợp với tính chất kiến trúc stupa và các dòng thiền môn lúc đó. Bệ tượng chùa Phật Tích là điển hình cho nghệ thuật thời này. Bệ tượng đắp theo hình bát giác. Phần dưới trang trí hình sóng nước với 6 đợt sóng đều đặn được sắp chồng lại với nhau. Phần trên có 3 tầng, trang trí rất tỉ mỉ. Trong mỗi tầng đều có hình hoa sen 32 cánh mở rộng ra và sắp đều. Mặt thẳng của tượng có những mô hình nhạc công, vũ công đang múa hát, đánh đàn, thổi kèn… Hình mây với những đường gợn sóng song song với nhau. Đa số là hình sóng nước và hình những đám mây đang bay. Những vòng tròn hay hình đa giác cũng được điểm xuyết đều đặn hay tạo thành những khung bao quanh hình đồ chính. b) Tượng Quan Âm được xem là một trong những mô hình phổ biếntại các chùa chiền. Tượng nầy thường có năm cách tả khác nhau: Phổ biến nhất là đức Quan Âm Chuẩn Đề: Tượng có ba khuôn mặt và mười tám cánh tay, nói lên tính đa dạng và biến ảo của Ngài. Loại hình khác là: tượng thiên thủ thiên nhãn cũng trong ý nghĩa như trên tượng Quan Âm tọa sơn, tượng Quan Âm ngồi trên toà sen, tượng Quan Âm Thị Kính. Trong những biểu trưng thờ phượng tại các chùa chiền Việt Nam còn thấy những vị khác: Bồ Tát, La Hán, Tôn Giả, Thiên Vương… Phần sau cùng là những sư tổ, những người có công đức trong thời kỳ xây dựng đầu tiên hay tu bổ chùa chiền. Bên cạnh tượng Phật còn có những tượng Kim Cương. Nếu tượng Phật thiết trí ở vị trí trung tâm kiến trúc chùa tháp, thì những tượng Kim cượng lại gắn với các tường tháp, bên cạnh cửa ra vào. Ở cửa tháp Long Đọi Sơn, còn tìm thấy được sáu tượng Kim Cương tương đối nguyên vẹn. Chiều cao trung bình vào khoảng 1,6m, thân thẳng đứng, ít động tác, những hoa văn trang trí ở tượng nầy khắc sâu vào và biến đổi theo cấu trúc giáp trụ. Phần lưng tượng gắn chặt vào thành tường tháp. Phần nhiều tại những chùa Việt Nam, Kim Cương thường có tám vị gọi là Bát Đại Kim Cương. Riêng tại chùa Phật Tích chỉ có một vị, nhưng nói lên đầy đủ những nét uy nghi của nhân vật huyền thoại nầy. Pho tượng này trải qua bao nhiêu triều đại, đến nay đã không còn được toàn vẹn. Đây là hình của một võ quan, mặt phương phi, râu dài, trong tư thế sẵn sàng chiến đấu chống ma quỷ. Trên áo giáp của vị thiên thần nầy có nhiều nét hoa văn rực rỡ, hùng tráng, lẫm liệt. Tại nền chùa Phật Tích cũ còn tìm thấy được một số di tích quan trọng khác: tượng sư tử, tê giác, voi, trâu, ngựa… nằm trên những nền đài hoa sen. Ngoài ra cũng tìm thấy được những tượng hình của những vũ nữ và nhạc công chạm trổ cực kỳ tinh xảo. Những vết tích khác thì nay đã không còn thấy nữa. Ngày nay, chùa Phật Tích được tu bổ, nhưng chỉ là một ngôi chùa nhỏ và chưa có vị trụ trì. Trong điêu khắc đời Lý, không thể không kể đến sự đóng góp của các nghệ sĩ Chăm Pa tham gia. Gạt bỏ tính huyền hoặc của tượng đầu người mình chim chùa Phật Tích cao 40cm, mang tinh thần trong sáng lạ thường. Kết cấu hình chim ở đây với đuôi xoè rộng cong lên tiếp giáp với đầu người, mặt cân đối tĩnh lặng như những mặt của đức Phật. Trên ngực có gắn chiếc trống cơm. Những mẫu trang trí chạy dần theo các xoắn hoa cúc, dương xỉ, mây cuốn, từ phần đầu người cho đến phần vạt đuôi chim. Pho tượng đã bị gãy sứt một đôi phần, có thể là một bộ phận của đầu cột trên kết cấu của kiến trúc nầy. Những thần điểu có chiều cao trong khoảng từ 40 cm cho đến 60 cm; riêng ở chùa Bút Tháp còn lưu giữ một hình thần điểu khá tinh vi vào đời Lý Trần (?) cao khoảng 90cm. Thần điểu cũng thường được trang trí phần ngoài ở cửa những ngôi tháp cổ, cũng trong ý nghĩa vừa nói trên. Thần điểu cũng còn tìm thấy ở chùa Chương Sơn, Đọi Sơn, nhưng đến nay thì đã không còn được nguyên vẹn nữa. Theo nhận định của những nhà khảo cổ thì đây là kiểu phối hợp 2 nghệ thuật Chăm – Pa và Trung Hoa. Nhận định chung của những nhà nghiên cứu cổ học thì thần điểu đã mô phỏng theo như tượng thần kinnari của Chăm – Pa, được dựng lên trên nhiều tháp cổ vào thế kỷ thứ VI sau Công Nguyên. Tượng kỳ lân thường làm bằng đá màu nâu nhạt. Đây là một trong những công trình kiến trúc nổi tiếng ở khu vực thành Thăng Long thời đó. Kỳ lân được đặt trên một trụ cao hai tầng, có chạm khắc hình sóng nước và hình kỷ hà. Có những bậc thang lên xuống ở trụ đá nầy. Rồng là chủ đề quan trọng trong những thể loại kiến trúc. Đó cũng là nét đặc trưng trong những công trình kiến trúc, hội họa và điêu khắc, trang trí chùa chiền, đình làng hay lăng mộ, cung điện. Khởi đầu từ trong tư duy thần thoại Việt Nam cũng như Trung Hoa, con rồng luôn luôn là biểu tượng tốt đẹp của sự cao cả, oai nghi. Do ảnh hưởng của triết lý âm dương, cho nên ở những mái đình chùa, lăng miếu có đắp hình tượng những dạng thức ước lệ về lưỡng long tranh châu và cũng thường trình bày trong tư thế đang cố vươn lên cao. Thời Lý hình rồng có dáng vóc của một con rắn được biến thành rồng, với thân hình thon dài, với những lối lượn lách nhịp nhàng, biểu trưng cho sự thanh bình, an lạc. Con rồng nầy trên đầu có lông nổi hẳn lên, chòm lông rộng và dài; trong miệng có ngậm viên ngọc xanh, biểu thị cho tính chất quý phái. Những hình chim phượng hoàng cũng thường thấy ở những đền đài, cung điện thời đại Lý, Trần. Điểm khác là chim phượng hoàng ở đây có đuôi dài hơn và những chùm lông ở vòng quanh cổ cũng dài hơn. Màu sắc lông chim thường kết hợp lại với nhau rất hài hoà, uyển chuyển. Chim phượng cũng thường trang trí trong những khuôn hình vuông, hình chữ nhật, hình tròn, lá bồ đề hay trong hình giọt lệ. Nhìn chung, nghệ thuật điêu khắc đời Lý đã phát triển qua giai đoạn khá rực rỡ. Những vật liệu trang trí kiến trúc này một sốthì làm bằng đất nung, số khác thì bằng đá hay bằng gỗ. Đất và đá dùng trong điêu khắc có những kiểu dáng phóng khoáng, còn chất liệu bằng gỗ thì sinh động. Những đề tài và kiểu thức của mỗi loại lại không giống nhau, do tính chất lý học của từng vật liệu. Hơn nữa, sở trường của những nghệ nhân người Việt chuyên về đục chạm trên gỗ, còn nghệ nhân Chăm Pa sang giúp thì lại chuyên về điêu khắc đồ sành gạch hay đất nung. Những đường nét nầy đã được hoàn chỉnh hơn về sau nầy, trong nghệ thuật điêu khắc đời Trần.

B- Điêu khắc Phật Giáo đời Trần

Điển hình điêu khắc thời này, phải nói đến chùa Bút Tháp. Điện thờ ở đây đã được xây dựng toàn bộ do ngài Chuyết Công trong thời gian mới đến trụ trì tại ngôi chùa nầy. Thành thử kiến trúc khác hẳn những mô thức trước. Nóc điện không nhọn mà tròn tương tự như những mô hình kiến trúc Nhật thấy ở những chùa và tháp đồng thời. Sau là toà cửu phẩm, có những hoa sen được kiến trúc chồng lên nhau qua chín lớp khá cân đối. Toà nhà gồm ba mái, nhưng phần chính lại lớn gấp đôi những phần phụ thuộc. Hình thể của các mái trên nhỏ hẳn dần và sau cùng là một nóc nhọn cao vút lên không trung. Các góc trang trí những loại hình rồng, kỳ lân và sóng nước xen kẽ vào nhau khá hài hoà, cân đối. Theo nhận định của những nhà nghiên cứu kiến trúc Việt Nam thì tất cả nói lên toàn bộ giá trị nghệ thuật Đông Sơn lưu lại. Đây cũng là kiến trúc điển hình của thời đại Trung Hoa, dù vay mượn, nhưng vẫn còn mang tính chất cổ truyền Việt Nam. Hội họa và trang trí trong nghệ thuật Phật Giáo đời Trần có những điểm khởi sắc. Tại chùa Thầy, những mô hình hoa lá ở những mặt bệ đá kép các pho tượng Phật thuộc loại bệ tượng truyền thống được những nhà mỹ thuật gọi là “bệ đá tam Thế Phật”. Những hình này được chạm nổi tinh vi, những chi tiết về đường gân lá, cuốn lá, thân lá khi chạm nổi, khi chạm chìm, mà tất cả được bố cục trọn vẹn trong toàn mặt bộ hài hoà, cân đối. Những thể loại này đều được bố cục các chi tiết, sao cho hai nửa mặt phải và trái đăng đối, mà không cần phải đối xứng. Chẳng hạn như: những hình hoa lá ở bệ đá tam thế chùa Ngọc Đỉnh, chạm theo kiểu bệ đá chùa Thầy; tất cả vẽ hình hoa sen đủ loại, trên nền có những nét hoa văn khắc chìm để lấp những khoảng trống, trông như vẽ trên giấy thủy tiên. Tại chùa Hoa Long, hình sóng nước trên bệ đá tam thế và ở chân tháp Trần Nhân Tông chùa Hoa Yên cũng là hình khắc chạm nổi, đường nét thoăn thoắt, đều đặn. Tại chùa Hàn, những chi tiết hội hoạ theo chữ “Phật”, được chạm khắc theo nét bút, trông như tranh đại tự ngày Tết. Những bệ đá tam thế bằng gỗ ở chùa Thầy, chùa Hoa Long, chùa thôn Tiền, bệ phỗng chùa thôn Trung cũng đều được chạm nổi, có hoa văn liên tục hay hình rồng, nét phác thảo, phóng nhanh nhưng vẫn sâu sắc. Tại chùa Phổ Minh điêu khắc cũng mang sắc thái độc đáo. Tam quan là bộ phận điêu khắc được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến, được xem là kiểu dáng tam quan đời nhà Lý ảnh hưởng đến. Sấu bò từ phía trên xuống dưới. Phía dưới của sấu là một băng hoa dây, uốn lượng theo hình “sin”, thường thấy trong kiểu trang trí đời Trần. Con sấu còn khá nguyên vẹn với những nét rõ ràng, cứng cáp. Con vật khá sinh động: đầu ngẩng lên cao, bờm sất ngược, phủ kín gáy và tai. Đuôi duỗi dài, hơn uốn sóng, mình mập mạp, chân rắn chắc, toàn thân như muốn chồm lên cao. Hình tượng con sấu tại tam quan chùa Phổ Minh rất giống với những hình sấu bằng đá lăng vua Trần Anh Tông ở xã An Sinh, huyện Đông Triều(Quảng Ninh) hay tại một số di tích khác đời Trần. Đây là dấu vết của loại tam quan sớm nhất còn lưu lại cho đến nay. Điêu khắc chùa Bối Khê nổi tiếng ở vì kèo: bộ phận vì kèo đều có cốn, theo hình lá đề. Đầu các bẩy chạm có hình rồng, theo kiểu thức đời nhà Trần. Ở một số đầu đao, ngoài hình rồng ra, còn có cả những hình chim thần (garuda) như tại tháp Chăm – Pa. Theo những di vật, di chỉ còn lại trong chùa Bối Khê là bệ đá hình chữ nhật; tầng trên có chạm hình đài sen. Thân bệ chạm những loại hình rồng, thú và hoa lá; tại bốn góc cũng có hình chim thần garuda. Những dòng chữ Hán được ghi trên bệ có ghi niên hiệu vào tháng 9 năm 1382. Trong chánh điện, có nhiều thể loại tượng thờ nhưng kiểu dáng trang trí, điêu khắc đẹp nhất là tượng đức Quan Thế Âm Bồ Tát quá hải. Bốn đầu dao ở bốn góc thượng điện uốn cong vút lên. Từ xa trông giống như hoa sen nở. Những phần kiến trúc của thượng điện có dáng dấp mạnh khoẻ. Khác với những ngôi chùa gỗ xưa thường dùng là gỗ lim, thì thượng điện Bối Khê lại làm bằng gỗ mít. Những cột đều ngắn và to. Những kết cấu ăn chặt vào nhau, theo kiểu thức dùng sức nặng tự thân tỳ lên. Những cột cái, cột quân có tiết diện hình tròn. Hai vì nóc của thượng điện chùa nầy đều dựa theo mô thức đời Lý: ngay trên câu đầu, có một con giường, đoạn giữa nằm lẹm xuống. Đuôi giường được chạm khắc hoa văn xoáy tròn, xen kẽ những đường soi. Phần trên hai đoạn của con giường, mỗi đoạn có trụ chống. Trên trụ có chạm hình hoa sen nở, nhiều cánh; thân trụ thì chạm hình hoa cúc. Qua những nghiên cứu về di vật còn bảo lưu lại tại chùa Bối Khê (Thanh Oai) hiện nay đáng chú ý nhất là chiếc bệ đá. Đây là chiếc bệ đá hoa sen thờ Phật, nằm ở phía trong cùng của toà thượng điện chùa nầy. Đây là loại bệ đá lớn, chiều dài 2,5 mét, chiều cao 1,04 mét và chiều rộng 1,6 mét. Những dòng chữ khắc chìm ở bệ đá có giá trị tài liệu quý. Mẫu tự tuy nghệch ngoạc, nhưng nét tự nhiên. Nội dung cho thấy được: Năm Nhâm Tuất, niên hiệu Xương Phù thứ 6 (1382) một số tín hữu đã cúng chùa tiền và ruộng để kiến tạo. Trong số, một đạo sĩ Quốc Oai cúng bàn đá thờ Phật. Như vậy, cách lập ruộng cúng chùa từ đã có từ đời Trần. Cùng với giá trị lịch sử, bệ đá này còn giá trị nghệ thuật. Bệ chia nhiều tầng, mỗi tầng trang trí khác nhau: lớp trên cùng là đài sen, gồm hai lớp cánh ngửa và một lớp cánh úp. Lớp giữa là đường gờ chạm dây leo. Lớp dưới là thân bệ, có nhiều hình trang trí. Đài sen với nhiều cánh ngửa. Bên trong có hai đường viền móc câu cuộn bao lấy hoa sen. Chính giữa hoa sen là vòng tròn đồng tâm. Bốn góc thân bệ có chạm chim thần (garuda) nửa người nửa thú. Đầu chim có những dải tóc xõa ngược. Trán ngắn, mắt lồi to, lông mày lớn. Tai to kiểu tai người, có đeo vòng khuyên tròn. Chim mình trần, ngực nở nang, bụng to tròn. Hai tay có nhiều ngấn gấp hình vuông, giơ lên ngang đầu đỡ lấy toà sen; hai bàn tay nắm những viên ngọc tròn. Chim ngồi phệt xuống, mặc váy kiểu lá sen ba xếp. Mặt thân bệ trước trang trí ba ổ rồng xen kẽ với hai ô có hình thú, trông như con nai ngậm cành hoa cúc. Rồng trong ô chữ nhật và rồng trong ô vòng sáng nhọn ở giữa. Một con có mào, có sừng, con kia thì có mũi sư tử. Những hình thái bố cục khác cũng vậy.

C- Điêu khắc đời Lê sơ (1427 – 1525)

Lê Thái Tổ lên ngôi, lấy Nho giáo làm nền tảng tư tưởng trong việc trị quốc, Phật Giáo đã không còn được phát triển như trước. Kiến trúc Phật Giáo trong giai đoạn này không còn lưu lại di tích nào đáng kể. Nhiều ngôi chùa tại kinh đô hay nông thôn chỉ còn lại tấm bia, bệ tượng và được tả trong sử sách hiếm hoi. Chẳng hạn như năm 1434, đại thần Lê Sát dựng chùa Thanh Đàm và chùa Chiêu Đô. Chùa Minh Độ (Thanh Hòa, Hải Hưng) được trùng tu đời vua Lê Thánh Tông (1461). Năm 1499 vua Lê Hiến Tông sửa chùa Thầy. Cùng một loạt các chùa được tu bổ, còn lại bi ký như sau: chùa Kim Liên (Hà Nội trong bia ghi 1445, chùa Thúy Lai trong bia ghi 1470, chùa Đại Bi trong bia ghi 1490, chùa Vô Vi trong bia ghi 1515, chùa Bối Khê trong bia ghi 1515, chùa Hoà Lạc trong bia ghi 1505, chùa Quang Khánh trong bia ghi 1515, chùa Minh Khánh trong bia ghi 1515). Tháp đá chùa Hoa Yên (Yên Tử), có xá lợi vua Trần Nhân Tôn được dựng đầu đời Lê. Có những phần xây từ trước như bệ tháp vốn xây từ đời Trần, sau dựng lên trên đó tháp 6 tầng, mặt cắt hình vuông. Chùa Ngọc Khám (Hà Bắc) tuy không còn để lại đường nét kiến trúc, tuy nhiên còn để lại 3 pho tượng đá lớn. Bia dựng đời vua Mạc Hoằng Định (1613) nói đến trùng tu gác chuông. Thực chất của điêu khắc đời Lê đến nay chưa rõ, tuy nhiên vẫn là sự tiếp nối từ mô hình điêu khắc đời Trần. Pho tượng đức Quan Thế Âm Bồ tát Nam Hải chùa Bối Khê điển hình cho nghệ thuật chạm khắc chùa tháp đời Lê Sơ. Bố trí pho tượng điều hoà, cân đối. Tuy bằng gỗ phủ sơn nhưng đường nét tự nhiên, sinh động. Chiều cao đến 2,53m có bệ tượng 94cm. Tượng Quan Âm ngồi trong tư thế bán kiết già, áo không tay, chạy lượn biên, gập lá sen sau lưng. Phía trước phủ qua vai chảy xuống lòng đùi, tạo nhiều lớp trên mặt bệ tượng. Tuy nhiên, ở đây, với phong cách mới, cho nên đã không còn kỹ thuật chạm kênh như trước. Các trang trí cây mệnh, sừng tư được kết hợp tương xứng với những đường nét trên bề mặt. Trong 14 tay tạo thành 7 đôi đối xứng nhau qua thân theo những tư thế sau đây: (1) Giơ cao ngang đầu tượng nâng mặt trăng. (2) Giơ cao vừa phảicác ngón tay bắt ấn. (3) Lòng bàn tay hướng về trước. (4) Chắp tay trước ngực. (5) Đặt lòng bàn tay ở trước. (6) Tay ngửa đặt trên đầu gối. (7) Chống thẳng đằng sau. Tất cả cân đối, hài hoà.

D- Điêu khắc đời Lê – Trịnh

Vào thế kỷ XVII, ở Đàng Ngoài nhiều cuộc biến động diễn ra không ngừng. Nho giáo vẫn là nền tảng tinh thần của triều đình Thăng Long cũng đã suy thoái, biến đổi. Phật Giáo trong dân gian có cơ hội phát triển trở lại. Những công trình tiêu biểu như sau: chùa Thầy trong thời kỳ nầy còn lưu lại nhiều tác phẩm điêu khắc giá trị. Bộ tượng “Di Đà Tam Tôn” (Di Đà, Đại Thế Chí, QuanÂm) có niên đại sớm nhất. Tượng Phật A Di Đà cao 1,75m, kể cả toà sen và bê tượng, tất cả2,6m. Thế ngồi kiết già, thiền định. Tóc xoắn ốc, nhọn dần lên đỉnh, khuôn mặt bầu bỉnh, phúc hậu; áo cà sa hở ngực, chảy sệ, được đỡ lên bởi bộ anh lạc chạm mỏng nhiều hoa và hạt ngọc trên ngực. Áo nhiều nếp, chảy qua phía tay buông xuống, rồi chảy qua hai bên đùi. Đài sen không tròn, có hình tam giác lượn góc, với 2 lớp cánh, 1 úp, 1 ngửa. Tượng Đại Thế Chí Bồ tát cao 1,51m, bệ tượng 0,52m, ngồi toạ thiền, mặc áo cà sa hở ngực và áo trong, ngực đeo anh lạc, với ba bông hoa kết bằng những hạt nổi tròn. Toàn thân chạy dọc 5 đường tràng hạt qua hai vai từ hàng dọc bên trái qua lưng sang phải; 1 đường ngang chạy lên lòng đùi. Đài sen rộng, với 3 lớp cánh úp và mở. Tượng Quan Thế Âm Bồ tát có chiều cao 1,17m, bệ tượng 0,77m. Dáng ngồi thõng chân trái, chân phải khoanh cao. Nhiều nét giống tượng đức Đại Thế Chí Bồ tát. Đầu đội mũ thiên quang, trang trí một lớp tràng hạt nhỏ. Ngồi trên một bệ 4 cấp, chạm khắc các đường hoa văn, cây mệnh và lá đề. Ngoài ra những điêu khắc chân dung khác như chân dung bà Vũ Thị, công chúa Minh Châu, bà Diệu Tuệ. Đó là những người từng đóng góp tiền trùng tu. Tại chùa Tây Phương cũng nhiều công trình đáng kể. Tượng Quan Âm quá hải bằng gỗ phủ sơn, 12 tay, cao 1,50m. Bố cục đơn giản với các tay xoè như cánh quạt, khuôn mặt hiền hậu, thuần khiết. Toà sen cao, có hình con quy đội lên. Tượng bà Nguyễn thị Ngọc Diệu: cao 85cm, gỗ phủ sơn, cao cao 10cm, đặt trên ngai gỗ. Khuôn mặt rộng, oai vệ; đường nét cân đối, có khăn choàng lớn. Tại chùa Trăm Gian tượng Văn Thù Sư Lợi Bồ tát cao 98cm, bằng gỗ phủ sơn. Vị Bồtát đầu đội mũ thiên quang, chạm khắc hoa văn và hình tượng Phật.Áo nhiều lớp, buông từ vai xuống chân, những đường nét gợn lên nhịp nhàng. Tượng Quan Thế Âm Bồ tát: 42 tay, cao 1,05m, toà sen 0,20m. Đôi tay chắp trước ngực, dâng các lớp áo dời khỏi khối cơ thể. Một đôi tay khác đưa ra từ trong lớp áo úp lên đùi. Những đôi tay còn lại vươn ra, như muốn bay bổng. Trên đầu có mũ hồng loan, nhiều đường nét chạm kỷ. Ở chùa Bút Tháp hệ thống điêu khắc hoàn chỉnh trong khoảng 1647 – 1656. Bộ tượng Tam thế chiều cao khoảng 1,75m và bệ cao 78cm. Pho Hiện tại có hai tay chống ngửa, đặt lên đùi, “nhục kháo” lớn như bát úp trên đầu. Áo cà sa nhiều lớp, phủ qua vai, hai tay, xuống mặt bệ. Đài sen 5 cánh. Bệ dưới có 4 cấp vuông. Vòng hào quang sau lưng có gắn chim 2 đầu người (Jivajiva). Pho Quá khứ hai tay duỗi ra tự nhiên, đặt trên đùi, bàn tay ngửa, các ngón trong tư thế ấn huyệt. Pho Vị lai giơ hai tay cao, như đang thuyết pháp; vòng hào quang chiếu sáng Ca Lăng Tầng Đà (Karavinsa). Tượng Quan Thế Âm toạ sơn cao 0,85m bệ cao 0,55m, trong tư thế ngồi; chân duỗi, chân co, mũ cao; khuôn mặt dài thanh tú, tay đặt trên đầu gối, tay đặt trên đùi. Các nếp y chạy đều trên bề mặt của thân, rồi xuống mặt bệ. Hai thị giả cao 50cm, toà sen 17cm, trong tư thế quỳ chống chân. Tay chắp trước ngực kính cẩn, mặt đôn hậu. Tượng Quan Âm thiên thủ, thiên nhãn là tượng ngồi; chiều cao2,1m, với 42 tay lớn, 952 tay nhỏ, tạo thành 7 vòng tay nở rộng dần, bệ cao 1,4m, bằng gỗ phủ sơn. Trong mỗi bàn tay nhỏ là một con mắt. Trên đỉnh đầu có chim thần hai đầu người (Jivajiva) Pho tượng được xem là “tác phẩm cổ điển tiêu biểu của điêu khắc Phật Giáo”. Trên tượng có ghi “Ngày lành, mùa thu Bính Thân(1656)”; dòng chữ khác ghi “Trương tiên sinh tước Nam Đồng, giao thọ nam phụng mệnh tạc tượng”. Tại chùa Mật nhóm tượng chùa Mật được tạc trong khoảng 1644 – 1646) gồm: tượng vua Lê Thần Tông và 6 bà Hoàng. Tượng Lê Thần Tông ngồi toạ thiền, mặc hoàng bào, đội mũ bình thiên, khuôn mặt phúc đức. 6 tượng các bà Hoàng đều chung một kiểu ngồi toạ thiền, đầu đội mũ có hình Phật. Trong số nầy có tượng bà Trịnh Thị Ngọc Trúc, tượng bà Hoàng người Hà Lan và tượng bà Hoàng người Mán. Bà hoàng người Hà Lan cao to, lộng lẫy, nhưng vẫn khoác y phục Việt Nam cổ truyền. Theo Nguyễn Quân (Mỹ Thuật của người Việt – 1988) thì:”Tượng chân dung chùa Mật liên hệ sâu sắc với tượng chùa Bút Tháp, là cái cực thực hiện trượt lên đời sống tôn giáo, có gốc rễ sâu thẳm từ sự cảm thấy hư vô và tuyệt vọng lý tưởng…” (trang 189).

E- Điêu khắc Phật Giáo đời Hậu Lê

Vào thế kỷ XVIII, trong tình trạng chiến tranh liên miên, Nho giáo suy thoái dần trong khi đó thì Phật Giáo có cơ hội vươn lên; nền điêu khắc Phật Giáo trong thời kỳ nầy bành trướng mạnh mẽ, nhất là trong những ngôi chùa vùng đồng bằng sông Hồng. Điêu khắc được nói đến nhiều là ở chùa Giám, chùa Kim Liên, chùa Tây Phương, chùa Mía, chùa Dâu, chùa Sủi, chùa Kiến Sơ, chùa Trăm Gian. Ảnh hưởng của nền điêu khắc này còn được phát triển trong những thế kỷ kế tiếp. Chùa Giám còn bảo lưu được nhiều đồ án điêu khắc giá trị. Nhiều văn bia còn nói đến điêu khắc lại đây. Chẳng hạn như trong văn bia “chú tạo Đế Thích thánh tượng” năm 1708 (Vĩnh Thịnh 4 – Đinh Hợi) trong việc kiến tạo tượng Đế Thích. Văn bia về việc “chú tạo thượng Phật bia” ghi tháng sáu năm 1712 (Vĩnh Thịnh thứ 8) nói về việc đúc chế tượng Phật A Di Đà. Văn bia bốn mặt năm Vĩnh Thịnh thứ 13 (1717): mặt “Nghiêm Quang thiền tự” ghi rõ vào ngày 16 tháng 2 năm Tân Mão (1711) có đúc pho tượng đức Quan Thế Âm Bồ tát 24 tay được hoàn chỉnh; về mặt “Danh lam cổ tích” ghi vào ngày 20 tháng giêng năm Tân mão (1711): đúc lại pho tượng đồng Đức Thánh, Mục Liên Tôn giả và Giác Hoa Tôn giả, có pho làm hoàn toàn bằng vàng; mặt “hưng cộng cầu hú” ghi năm Bính Thân(1715) đã đúc tượng 8 vị Kim Cương, tứ Đại Bồ tát, thập bát La Hán, Thánh Tăng, Hộ Pháp, Thiên Thần, Tam Tổ, Như Lai và ngày 18 tháng 3 năm Đinh Dậu (1716) đã cử hành lễ Khai Quang điểm nhãn. Qua những chứng liệu văn bia kể trên cho thấy: trong khoảng thời gian từ 1706 đến 1716, tại chùa Giám đã đúc được 46 pho tượng chính của ngôi chùa; những năm sau còn đúc bổ túc những tượng khác. Tiếc rằng điện thờ chùa Giám gần đây đã xáo trộn khá nhiều so với thế kỷ XVIII cho nên đã không đối chiếu được những điều ghi trong văn bia. Nhiều pho tượng có nét khắc chạm đặc biệt: chẳng hạn như pho tượng đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, tạo lập năm 1715, bằng gỗ phủ sơn, ngồi trong tư thế kiết già, tay đặt lên đầu gối, tay giơ ngang vai với hai ngón tay chỉ lên khẳng định ý niệm. Đầu hơi to, tóc xoắn ốc lộ khướu trán, mặt rộng, mắt nhắm nghiền. Các nếp y phục chạy vòng hướng vào trung tâm. Ngực áo trang trí nhiều hoa văn nổi… (theo Mỹ Thuật cuả Người Việt). Nếu điêu khắc của chùa Giám được ghi chép vào văn bia thì tại chùa Kim Liên còn giữ lại nhiều tư liệu ghi trong tự phả. Dựa vào những vật thể còn lại thì điêu khắc ở đây mang tính hỗn dung trong việc thờ Phật và thờ Thần. Điêu khắc trải đều trong ba tòa nhà. Tòa đầu bên phải có các tượng Đức Ông và quan hầu; tòa nhà bên trái thờ tượng Đức Thánh và quan hầu; tòa giữa là các tượng Phật. Toà cuối gồm 5 gian, gồm có những tượng thờ: Gia tiên thập phương thế giới – thờ bà Thủ Đền – Tam Toà Thánh Mẫu, Ngũ Vị Tôn Quan,Công chúa Quỳnh Hoa, ông Hoàng Bảy và ông Hoàng Mười – tượng chầu bà Đức Vua và 2 ông Hoàng – tượng Phật, sư tổ nam và sư tổ nữ. Trong những công trình này, những nhà nghiên cứu mỹ thuật thường đề cập đến tượng Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát, tượng đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni và tượng đức Quan Thế Âm Bồ tát. Tượng đức Văn Thù Sư Lợi Bồ tát bằng gỗ phủ sơn, cao 1,58m, có bệ cao 0,26m, trong tư thế đứng, chắp hai tay trước ngực, mắt đăm chiêu tham thiền nhập định, tà áo duỗi dài. Tượng đức Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát cũng có kích thước tương tự như vậy; trong tư thế đứng, hai tay chắp trước ngực, mặt căng tròn, mắt nhắm thiền định, các nếp áo kéo dài. Tượng đức Bổn Sư Thích ca mâu Ni bằn gỗ phủ sơn, cao 60cm, bệ toà sen cao 20cm, trong thế ngồi bán kiết già, trầm mặc. Pho tượng đức Quan Thế Âm Bồ tát 42 tay, chiều cao 1,2m là một trong những pho tượng đẹp nhất của ngôi chùa này, được đặt trên bệ toà sen gỗ hình lục lăng không đều cao khoảng 0,2m. Các bàn tay xếp so le theo nhiều hướng khác nhau, với các ngón tay búng co duỗi nhiều tư thế. Tượng chùa Kim Liên tuy không nhiều, nhưng hầu hết khắc chạm tinh xảo. Những công trình điêu khắc tại chùa Tây Phương khá hoàn chỉnh, đã đóng vai trò chính yếu về điêu khắc cuối thế kỷ XVIII, với sắc thái Tịnh Độ Tông. Những pho tượng tại chùa này không điêu khắc cùng một lúc nhưng phần nhiều đều được hoàn tất vào năm 1794, trong lễ khánh thành chùa. Có pho tượng đức Quan Thế Âm Bồ tát 12 tay vào thế kỷ XVII là tượng cổ nhất của thế kỷ XVII còn lưu lại; muộn nhất trong nhóm tượng nầy là 2 tượng Kim Cương, được mang từ nơi khác đến; tượng đức Quan Thế Âm 112 tay vào thế kỷ XIX sau đó; còn hầu hết đều thuộc thế kỷ XVIII. Những nhóm tượng tại chùa Tây Phương còn lại thì phải kể đến:(1) 7 pho tượng Kim Cương. (2) Bộ tượng Di Đà Tam Tôn; tượng Thích Ca Tuyết Sơn, tượng Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, tượng Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, tượng Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát. (3) Bộ tượng Tam Thế. (4) 18 pho tượng các vị tổ Thiền tông.S ự sắp đặt các hệ thống nầy có tính loại hình cao, mang tinh thần nhập thế của Phật Giáo. Tuy là bát bộ Kim Cương (8 pho tượng) nhưng nay chỉ còn 7. Tất cả đều có chiều cao vào khoảng 2,2m tính từ đầu xuống không kể tầm vươn của các binh khí, thể hiện được trình độ rất cao của nghệ thuật điêu khắc, lắp ghép các thành phần gỗ, cũng như cách bố cục, chuyển động, trên một thân thể mang giáp trụ trong các thế võ. Các chi tiết trang trí mang tính chất hiện thực, về khuôn mặt mỗi người thì theo một dáng khác nhau, mang tính chất cường điệu. Bộ Di Đà Tam Tôn gồm có tượng đức Phật A Di Đà; một bên là Đại Thế Chí Bồ tát (179cm, bệ cao 40cm), một bên là đức Quan Thế Âm Bồ tát (chiều cao 185cm, bệ cao 37,5cm được bầy theo hàng ngang ở hàng trên cùng của điện thờ trung tâm của toà giữa. Đặc biệt trong hàng này là pho tượng Phật A Di Đà, chiều cao 184cm, có bềcao 90cm, đứng thẳng, một tay giương ra như chỉ đường, một tay cầm viên ngọc; đây là loại tượng hiếm có của thế kỷ nầy. Theo giải thích thì “Trong thời đại nhiều khủng hoảng xã hội, đức Phật dù tĩnh lặng nhất ở cõi Niết bàn cũng phải đứng dậy, cứu nhân, độ thế”. Ngoài ra cũng cần đề cập đến tượng đức Phật Tuyết Sơn. Thật ra, tại miền Bắc Việt Nam nhiều chùa chiền đắp tượng Tuyết Sơn,tức thời gian Thế Tôn tu khổ hạnh. Cũng như tượng La Hầu La đã dẫn, tượng này đã mất vẻ Ấn Độ, mà được Việt Nam hoá đi nhiều, từ khuôn mặt, đến y trang, phong thái. Nhìn chung, tượng tạc hình dung của nhân vật đã trọng tuổi, gầy gò, ngực trơ ra nhiều xương sườn. Tư thế ngồi theo kiểu “thức mạn di”, tức là một chân xếp bằng lại; một chân co lên; tay phải để trên đầu gối đang co; tay trái để trên đầu gối xếp bằng. Mắt sâu trũng xuống, nhưng toát ra vẻ cương nghị. Đôi tay dài là một trong biểu trưng toàn bộ 32 tướng tốt. Nhà nghệ sĩ khi tạc tượng đã tập trung vào hình tượng đức Thế Tôn đang nhập định. Mọi vật chung quanh dường như không còn thấy nữa, tất cả trong tư duy tham thiền. Nhìn chung, đây là công trình điêu khắc nổi tiếng, hiếm có và mang nhiều sắc thái độc đáo.Tượng Quan Âm tại chùa Bút Tháp cao đến 3,7 mét, được xem là pho tượng lớn nhất thờ ở nội điện trong hệ thống chùa chiền tạiViệt Nam. Trong số những tượng nầy thì to lớn nhất là Bát Đại Kim Cương và tượng Vi Đà Thiện Tướng Quân. Chiều cao vào khoảng ba mét, được sắp đặt chung quanh góc chùa trong thế phù trì.Những nghệ nhân nổi tiếng tại huyện Ba Vì đã chăm lo điêu khắc;họ đã căn cứ vào đức tính và chức năng của mỗi vị Thần, để từ đó,bố cục, trang trí những đường nét sao cho hợp lý về cử chỉ cũng như trang phục cho từng vị một. Những tay thợ khéo cũng đã nghiên cứu từng binh khí, giáp trụ,từng chiêu thức tiến thoái trong võ thuật, tạo những đường nét sinh động, tinh vi lạ thường. Những nét chính của sự sáng tạo và nghiên cứu tâm lý này mà những pho tượng Bát Đại Kim Cương này đã trở thành mẫu mực về nghệ thuật diễn đạt dung mạo của chư Thánh. Hiện nay, tượng được ghi chép thành tư liệu cho những khuôn rập khác tại Việt Nam trong lãnh vực này. Trên bệ cao của nếp thượng điện chùa Tây Phương có ba pho tượng Tam Thế lớn, biểu trưng cho Quá khứ, Hiện tại và Vị lai của đức Phật. Những nét chạm điều hòa đồng một khuôn mẫu, mỗi đường nét thật tinh xảo, mà nghệ nhân phải bỏ hết tâm huyết, tài ba mới thực hiện nổi. Phía dưới có tượng đức Thích Ca Đản Sinh (Cửu Long), cũng theo cách trang trí trên. Linh động nhất trong toàn thể những công trình nầy thì phải kể đến các pho tượng chư vị La Hán. Tượng lớn bằng người thật, có tượng đứng, có tượng ngồi ở phía tường hậu của thượng điện. Tất cả còn lại 14 pho tượng (trước kia là 18 pho); mỗi pho tượng đều biểu hiện cử chỉ, phong thái riêng, trang phục riêng.

Kiêm Đạt

Nguồn: Điêu khắc Phật Giáo