Kho tàng liên hoa động pha lê

Kho tàng liên hoa động pha lê
Những giáo huấn trực chỉ của Ngài Shri Singha

Khi Ta, Đạo Sư Padma của xứ Uddiyana
Được tám tuổi, tín tâm của Ta được thức tỉnh.
Ta đã tới trước bậc Đạo Sư Shri Singha,
Dâng lên những lễ vật và Ta đã thỉnh cầu những giáo huấn.

Vị Guru đã nói, “Hãy huân tập tâm con trong Tam Tạng Kinh!”

Như vậy, ở phía Đông của Bồ Đề Đạo Tràng Vajrasana, Ta đã học các Kinh Tạng. Ở phía Bắc, Ta đã học Luật Tạng Vinaya. Ở phía Tây, Ta đã học Luận Tạng A Tỳ Đàm Abhidharma. Ở phía Bắc, Ta đã học các Ba la mật Paramita. Sau đó Ta đã tới trước ngài Shri Singha, dâng lên những lễ vật và báo cáo đã hoàn thành việc học tập toàn bộ Tam Tạng Kinh.

Ta đã thỉnh cầu Ngài xin hãy chấp nhận Ta. Vị Guru trả lời: “Con trai, trước tiên con phải đào luyện tâm mình trong những giáo huấn mật chú!

Và như vậy, ở xứ Uddiyana, Ta đã học 3 loại yoga. Ở xứ Sahor, Ta đã học Mật điển Mahayoga Tantra và phần tâm của Đại Viên Mãn Dzogchen. Ở xứ Nairanjara, Ta đã học Kilaya. Ở xứ Singha, Ta đã học Padma Maheshvara. Ở xứ Vasudhara, Ta đã học Kriya. Ở xứ Nepal, Ta đã học Yamantaka. Ở xứ Merutse, Ta đã học Mamo. Ở Vajrasana, Ta đã học các nghi quỹ sadhana của 8 vị heruka. Ở xứ Lantsha, Ta đã học Guhyasamaja, gồm 4 chương Tantra Cha và Tantra Mẹ.

Đã nhận ra vạn pháp chỉ như mộng huyễn, ảo ảnh, không chút chân thực và là hư huyễn, Ta đã tới trước vị đạo sư, ngài đang thuyết Pháp cho một hội chúng 5.500 người, trong đó có một số các vị vua. Khi Ta tới, Guru Shri Singha đã nói: “Con muốn gì, hỡi tu sĩ sơ cơ?

Ta trả lời: “Con đã học tổng quan các giáo huấn mật chú. Giờ đây con mong muốn nhận giáo huấn từ ngài!”

Guru Shri Singha nói, ”Con là một người uyên bác, thông tuệ, đầu tiên con đã học Tam Tạng Kinh và sau đó, con đã học Mật Chú. Bây giờ hãy để hội chúng này giải tán đã!”

Rồi ngài nói: “Con đã hiểu vạn pháp là hư huyễn, nhưng điều này không giúp được gì cả. Cái hiểu này, rằng là vạn pháp chỉ như mộng huyễn, ảo ảnh, không thực và hư huyễn nên được đồng hóa trong sự tồn tại, hiện hữu của con. Không cần thiết để khắc cốt ghi tâm nó, vì nó chỉ trở thành thứ vô vị. Điều này không phải là quả trong giác ngộ!”

Ta nói, “Nếu vậy, xin hãy ban cho con một giáo huấn để đưa nó vào tâm yếu!”

Vị Guru trả lời, “Đầu tiên, hãy lập một mạn đà la cúng dường!”

Ta đã lập một mạn đà la từ một lượng bụi vàng và dâng lên ngài.

Ngài Shri Singha nói: “Bây giờ, hãy để ở phía trước ta! Hãy giữ chân con trong thế vắt chéo, tay trong thế ấn thiền định và giữ cột sống thẳng đứng. Đây là chìa khóa, then chốt của thân”

Hướng thẳng đôi mắt con về phía bầu trời rộng mở. Đây là chìa khóa, then chốt của các nadi (kinh mạch, luồng sinh lực)”

Xiết chặt, làm căng các khí năng phía dưới của con và chặn các khí năng phía trên của con. Đây là chìa khóa, then chốt của prana (khí năng).”

”Hãy quán tưởng từ một hạt binđu (tinh chất) màu đỏ từ chữ E trong luân xa hóa hiện ở trung tâm rốn của con! Hãy quán tưởng một hạt binđu màu trắng từ một chữ BAM trong luân xa đại lạc từ trung tâm vương miện của con. Đây là chìa khóa, then chốt của binđu (hạt tinh chất)”

“Hãy tập trung tâm con lên chữ BAM được tan chảy bởi ngọn lửa chói sáng từ chữ E, sau đó các hạt binđu trắng và đỏ trộn lẫn, hòa tan cùng nhau vào trong luân xa pháp ở trung tâm trái tim con. Đây là chìa khóa, then chốt của tâm.”

“Hãy để cho các binđu trắng và đỏ trở nên từ từ nhỏ hơn, nhỏ hơn, và cuối cùng, đừng giữ lại bất cứ điều gì trong tâm cả! Đây là chìa khóa, then chốt của sự giác ngộ viên mãn và trọn vẹn!”

Ta đã thực hành theo cách này và vài thể nghiệm xuất hiện, như là: không còn cảm thọ về thân, không còn cảm thọ về hơi thở ra vào, cảm giác Ta có thể dịch chuyển không chút ngăn ngại qua những hiện thể và cảm giác “Ta không thể chết.” Khi những thể nghiệm này xảy ra, Ta đã cảm thấy tự hào và thuật lại chúng cho Guru.

Guru nói, “Thật là cực kỳ ngốc để tự hào trong việc được chạm tới nhờ những ân phước, gia hộ của một bậc minh sư và coi rằng đó là đủ. Bây giờ hãy đến một nơi hẻo lánh, cô tịch và đừng tạo ra bất kỳ những hư cấu, vọng tưởng tinh thần nào hết cả!”

Ta đã tới một nơi hẻo lánh và trong một năm cố gắng không tạo ra bất cứ những hư vọng tinh thần nào cả. Vài thể nghiệm xuất hiện, như là cảm giác rằng: “Không (sự trống rỗng) là Sắc (Sự hiện hữu, sắc tướng)! Sắc là Không! Sắc và Không là bất khả phân! Không có sự bất nhị, phân biệt đối với chư Phật và chúng sinh! Sẽ không có ác hạnh xảy tới thậm chí nếu Ta tham dự vào điều không đức hạnh! Sẽ không có lợi lạc nào thậm chí nếu Ta dấn thân vào thập thiện!”

Hài lòng về những thể nghiệm này, Ta thuật lại chúng tới vị thầy.

Ngài nói, “Thật là ngốc để hài lòng với thể nghiệm thiền định!”

Nếu con nghĩ rằng Sắc và Không là bất khả phân, thì con nên tách biệt ra khỏi những sắc tướng, hiện hữu. Con có vậy không?”

Nếu con nghĩ rằng chư Phật và chúng sinh là bất khả phân, thì con nên tự hào và phụng sự chúng sinh ngang với việc khi con phụng sự chư Phật. Con có làm thế không?”

Nếu con nghĩ, “Ta sẽ không có sự chín thành của nghiệp ngay cả khi Ta dấn thân vào mười ác hạnh”, vậy con sẽ có thể chấp nhận mười ác hạnh từ kẻ khác làm cho con – thậm chí nếu chính con bị giết hại. Con có thể làm điều đó không?”

Nếu con nghĩ, “Thậm chí nếu Ta can dự vào thập thiện thì cũng sẽ không có lợi lạc gì”, vậy con sẽ không còn bất kỳ cảm thọ hỷ lạc nào khi con được lợi lạc từ những người khác – những người đang thực hành thập thiện – thậm chí nếu mạng sống của chính con được cứu. Con có nghĩ vậy là đúng không?”

Bây giờ, hãy lại tới một nơi cô tịch và để thân con duy trì như một xác chết, hãy để tiếng nói của con duy trì như thể một kẻ câm và để tâm con duy trì như bầu trời!”

Rồi Ta lại tới một nơi hoang vắng và thực hành theo cách đó, nhờ điều này tám thể nghiệm xuất hiện:

Một thể nghiệm sáng tỏ, một sự minh bạch, sáng rõ tuyệt đối không ở bên trong cũng không ở bên ngoài, hiển hiện như một sự thức giác và tánh không không chút phân biệt, dù đôi mắt Ta mở hay nhắm.

Một thể nghiệm tánh không, hoàn toàn rộng mở và trống rỗng với sự không trụ bám, chấp chặt vào bên trong hay bên ngoài cùng với tâm thức không trụ bám lại ở bất kỳ đâu cả.

Một thể nghiệm hỷ lạc, lạc phúc giống như sự tan chảy của bơ và trở nên hoàn toàn tự do, giải thoát, phấn chấn và hồ hởi, với sự vắng mặt khởi niệm về việc có một cái thân hay một cái tâm.

Một trạng thái không còn chấp chặt, trụ bám tới các nhận thức cảm thọ khác nhau, nhưng vẫn còn bị nhiễm ô với một sự thiếu vắng đi sự hiện diện của tâm.

Một trạng thái thức giác tựa như vầng dương chói lọi tỏa sáng trên bầu trời.

Một thể nghiệm thân giống như màn sương mù, vắng mặt cả đối tượng và thực thể của hoạt động vật lý.

Một cảm giác nhận thức thấy không có tự ngã (bản thân) cũng như tha ngã (kẻ khác).

Một cảm giác rằng mọi chúng sinh cần phải thức tỉnh ý nghĩa tâm yếu tới cùng cấp độ như bản thân Ta.

Hài lòng với những thể nghiệm này, Ta đã thuật lại chúng tới vị thầy.

Ngài nói, “Có 3 thời điểm trong Đại Viên Mãn Dzogchen: “Thời điểm hiện diện tự nhiên”, “Thời điểm không thể hiểu và không thể nhận thức được” và “Thời điểm Đại Lạc (great bliss – hỷ lạc to lớn, phúc lạc vĩ đại). Trong 3 điều này, các thể nghiệm của con là “Thời điểm hiện diện tự nhiên”. Sau khi duy trì trong sự tươi mới (freshness), sự không thể nhận thức và đại lạc sẽ hiển lộ.”

Sinh Tử thì cuốn hút và lôi cuốn; Tâm thức thì cả tin và dễ mắc lừa! Đừng gắn kết tới kinh nghiệm thiền định mà hãy mở rộng tâm con!”

Ta hỏi, “Làm cách nào một người được cho là mở rộng tâm mình?”

Guru Shri Singha trả lời: “Không có sự khác biệt giữa chư Phật và chúng sinh nào khác hơn là phạm vi tâm thức. Cái gì được gọi là “tâm”, “nhận thức” hay “thức giác” là cùng một bản thể. Tâm một chúng sinh thì giới hạn. Tâm một vị Phật thì tỏa khắp toàn triệt. Vì vậy hãy phát triển một phạm vi tâm thức rộng mở như bầu trời. Bầu trời thì không giới hạn ở phía đông, không giới hạn ở phía nam, không giới hạn ở phía tây và không giới hạn ở phía bắc.”

Sau đó Ta đã tới một nơi cô tịch và phát triển một phạm vi tâm thức bao la tựa hư không, nhờ vậy những xác quyết này nảy sinh:

Một tâm thức không còn bất kỳ phóng chiếu hay xua tan các niệm tưởng, mà duy trì chính xác như nó vốn là – một sự thức giác và tánh không nhất tâm tuyệt đối. Điều này chính xác là những gì được gọi là sự nhất tâm.

Một sự thiếu vắng trọn vẹn của bám chấp tới những điều thật có – một sự rộng mở hoàn toàn với tâm thức không trụ bám, trú ngụ ở bất kỳ đâu. Điều này chính xác là những gì được gọi là sự mộc mạc, trực tiếp và giản đơn.

Một cảm giác “Còn gì nữa có thể có nhỉ? Tuy nhiên Ta thấy nó giống nhau! Không có gì để chối bỏ hay hoàn thành cả! Đây chính xác là những gì được gọi là nhất vị.”

Một cảm giác “Có cái gì nữa để tìm kiếm nhỉ? Đây là nó dù một người thiền định hay không”! Không có gì để thực hành cả! Không có gì được trưởng dưỡng qua thiền định cả! Đây chính xác là những gì được gọi là phi thiền định!”

Ta có một thể nghiệm mạnh mẽ cảm giác rằng, “Không thể còn bất kỳ điều gì vượt lên khỏi điều này! 2 thân sắc tướng khởi nguồn từ pháp thân, những hóa hiện đa dạng của âm thanh và sắc tướng này giống như một ngọn lửa và ánh sáng của nó! Không có sự thúc đẩy trước đó của hơi thở vào và ra! Không có sự tạo tác bất kỳ điều gì, những biểu lộ đa dạng còn hóa hiện! Điều này là sự bất biến như tinh chất hư không! Ngay cả tâm nhị nguyên mong manh nhất cũng không xảy ra! Đây chính xác là nó!”

Ta đã thể nghiệm cảm giác sáng tỏ chói lọi, hoàn toàn thuần khiết, rộng mở trọn vẹn, tỏa khắp toàn triệt – chứa đựng, ôm trọn tuyệt đối, hoàn toàn tự do, giải thoát và lan tỏa trọn vẹn. Thể nghiệm sáng tỏ tựa như vầng dương mọc trên bầu trời. Thể nghiệm tánh không tựa như không gian. Thể nghiệm đại lạc tựa như một đại dương. Ta đã có một thể nghiệm đa dạng tựa như những con sóng trên đại dương hay tựa những đám mây trên bầu trời. Khi những điều này xảy ra, Ta đã tới để thuật lại chúng cho vị thầy.

Guru Shri Singha nói: “Điều kiện tự nhiên của vạn pháp thì không có gì được thể nghiệm hết. Vì vậy con đang thể nghiệm cái gì? Cái gì được thể nghiệm? Con đang phấn khởi, hãnh diện về điều gì? Chính Ta không thể nghiệm bất kỳ điều gì cả. Phải chăng con đã thành tựu thứ gì cao siêu, thượng thừa hơn điều đó?”

”Những thể nghiệm của con là một thành tựu khác biệt với chư Phật 3 thời. Sự chú trọng lên một thể nghiệm nên được nhận biết như là một cám dỗ từ Mara (Ma Vương).

Tất cả các thể nghiệm của con được lập trình và dự trù từ trước chứ không phải là tự nhiên, bột phát chân thật và do đó là kết quả từ sự hư cấu. Chúng sẽ vẫn đến và đi. Chúng sẽ không thể khiến con đối mặt với những khó khăn. Chúng vẫn chỉ là một lớp màn che phủ những quan niệm, nhận thức tốt. Con đã không cởi bỏ được nút thắt của tư duy khái niệm, ý niệm. Nó giống như một căn bệnh ẩn tàng bên trong. Con có thể thấy sự lạc phúc ở hiện tại nhưng nó sẽ không giúp ích gì. Khi con không thâm nhập được vào cốt lõi, thì cái thây ma của sự mơ hồ, lộn xộn, phồn tạp vẫn còn luẩn quẩn xung quanh.” (1)

(1. Một phiên bản khác của bản văn này được tìm thấy trong tuyển tập các terma được hiển lộ bởi ngài Rigdzin Godem dưới tên Dzogchen Rangjung Rangshar. Phiên bản khác có sự khác biệt như sau: Ngài nói: “Con chưa nắm bắt được ngai vàng của sự xác quyết, vì vậy hòn than hồng âm ỉ cháy của sự lừa dối, ảo huyễn vào sự tự tin của cái ngã sẽ vẫn còn tiếp tục cháy trong những ngọn lửa.”)

“Nếu con để tâm tới thể nghiệm thiền định như sự tột bậc, tối quan trọng thì con không thể xác quyết cái thấy (kiến) trong khi chìm đắm trong các khái niệm, nhận thức. Nếu con cho phép bản thân mình trở nên thích thú bởi một phần nhỏ của đại định (samadhi), rồi nghĩ rằng không có gì cao hơn và liên hệ nó như là sự viên mãn của đại định, thì con sẽ không chặt đứt tận gốc rễ hoạt động của tư duy ý niệm. Con sẽ không buông xả được các lớp thể nghiệm thiền định và sự dơ bẩn vô minh sẽ không được tịnh hóa.”

“Với từng thể nghiệm thiền định thì có một sự thích thú tạm thời. Nhận biết, thấy được chúng là chân lý duy nhất, con đã trở nên tối ám. Bằng việc làm tối ám thực tại, cái mà vốn tự do, giải thoát tuyệt đối khỏi sự gắn kết, ràng buộc và sự trung chuyển, trường hợp ràng buộc và sự trung chuyển của thời kỳ quá độ đã chuyển sang các kết quả đại lạc này của con thì không có gì ngoài sự đi lạc.”

“Nếu con bám nắm lấy sự trong sáng và liên hệ nó như sự tối thượng, thì con đạt được trạng thái cao nhất trong Sắc giới. Nếu con bám chấp vào thể nghiệm rỗng không của vô niệm và liên hệ nó như là tối thượng, thì con đạt được trạng thái cao nhất trong cõi Vô Sắc. Nếu con bám chấp tới đại lạc và liên hệ nó như là sự tối thượng, thì con sẽ chẳng đạt được gì ngoài trạng thái cao nhất trong Dục giới. Điều này sẽ không phải là kết quả trong sự thành tựu giác ngộ vô song, thành tựu vô thượng của Đại Ấn.”

“Nếu vậy thì con nên rèn luyện như thế nào?“ Ta hỏi.

“Hãy đem tâm khởi nguyên từ ban đầu của con lại và rồi trở lại gặp ta!” ngài trả lời.

“Ồ, vậy con nên đặt nỗ lực vào điều gì?” Ta hỏi.

“Mọi nỗ lực của con nên được đặt một cách chính xác vào sự dễ dàng, không dụng công!” ngài trả lời.

“Con nên thực hành đại định (samadhi) phi nỗ lực thế nào?” Ta hỏi.

“Con trai yêu quý, đừng nắm giữ, cho rằng những thể nghiệm tạm thời trở thành điều tối thượng. Đừng bám chấp vào chúng! Đừng quan sát các đối tượng và đừng quan sát tâm. Đừng làm nhiều thứ và đừng làm gia tăng tới các khao khát, mong muốn. Đừng nuôi dưỡng các nhu cầu và đừng ấp ủ sự tuyệt vọng! Hãy để tâm con chính xác như nó là. Hãy để tâm con nghỉ ngơi như tâm điểm hư không!” ngài nói.

Sau đó Ta tới một nơi cô tịch và thực hành chính xác theo cách này. Những thể nghiệm trước đó của Ta trở nên không còn gì ngoại trừ các thứ lớp của các khái niệm hoàn toàn được dập tắt. Ta đã nhận ra tâm tự nhiên, hoàn toàn không bị che ám bởi bất kỳ khuyết điểm hay đức hạnh nào – tự do tuyệt đối từ một nền tảng của bất kỳ điều gì được thiền định trên đó hay bất kỳ điều gì làm nhân cho sự mơ hồ, phồn tạp, lầm lạc. Ta đã ngộ ra rằng nếu tâm tự nhiên này được trưởng dưỡng, thì sẽ không có bất cứ thứ gì được sản sinh ra, và nếu không trưởng dưỡng, sẽ không có sự lầm lạc, lẫn lộn. Ta đã nhận ra nó chính là tâm tự nhiên không chút khiếm khuyết, sự thức giác trần trụi và chói lọi. Việc nhận ra sự rộng mở tuyệt đối này, hoàn toàn tươi mới, cùng vị với (đồng thể tánh) vạn pháp của sinh tử samsara và niết bàn nirvana, Ta đã thuật lại điều này cho guru.

Vị Thầy nói: “Tâm khởi nguyên, pháp thân không chút phức tạp, chính là là sự thuần tịnh này và tâm tự nhiên trần trụi thoát khỏi thứ gì được trưởng dưỡng hay thứ gì khiến mơ hồ, lẫn lộn. Bây giờ, đừng tự che ám bản thân con với khao khát, ham muốn nào xa hơn! Hãy mang “kẻ khao khát, ham muốn cũ” tới trạng thái không ham muốn!”

Bằng việc duy trì một trạng thái được biết như là “Không bao giờ thiền định và không bao giờ chia tách, lìa khỏi bản tánh phi thiền định”, con sẽ đạt được những thành tựu vô thượng và thông thường. Bây giờ, có còn điều gì khiến con phiền não, khổ sở không? (2)

(2. Phiên bản khác ở đây đọc như sau: “Giờ đây con và Ta sẽ không bao giờ gặp lại!” Ta nói, “Con vẫn mong được gặp ngài và hỏi những giáo huấn.”

Con sẽ thỏa mãn để gặp ta và không vui nếu con không gặp ta?”Con sẽ vui mừng khôn xiết nếu con có thể gặp lại ngài!”)

“Không có gì khiến con phiền não khi con không còn những lầm lạc, khiếm khuyết và những hối tiếc, ân hận liên quan tới samaya (thệ nguyện mật thừa) của mình,” Ta đã trả lời.

Con có bực mình, khó chịu không?” Ngài hỏi.

“Con chỉ hơi bực mình, khó chịu,” Ta trả lời.

“Nếu con bực mình, con có sự hy vọng. Nếu con hài lòng, con có nỗi sợ. Nếu con có hy vọng và sợ hãi, con có sự ấn định nhị nguyên. Cái đó sẽ gây chướng ngại trí tuệ bất nhị của đại lạc, quả vị thuần tịnh. Đừng giữ suy nghĩ cái này là một lầm lỗi hay cái này là một đức hạnh để giữ sự thực hành phi nhị nguyên. Từ lúc này trở đi, hãy chỉ tiếp tục như thế mà không cần quay trở lại để gặp ta!”

Rồi Ta đã thực hành trong xứ Uddiyana và không có niệm tưởng mong manh nhất về việc hỏi xin các giáo huấn, cúng dường thể nghiệm của mình, hay về cái đức hạnh hay không đức hạnh, thiện và ác. Ta chỉ đơn giản tới nơi Ta đến và ngồi nơi Ta ngồi. Ta trở nên giống như một tử thi (3)

(3. Phiên bản khác đọc: “Như một tử thi bị bỏ lại trong một mộ địa, Ta tự do khỏi sự tạo dựng bất kỳ suy đoán, phán xét nào về bất cứ nhận thức nào sinh khởi”)

Và vị thầy đã đến và nói: “Con không định đảnh lễ ta sao? Con không định trình bày sự giác ngộ của con cho ta sao?

Đây không phải là “không đảnh lễ” và con thậm chí không có một đầu sợi tóc của sự thấu hiểu nào để dâng lên ngài. Nó giờ đây giống như vết tích của một chú chim bay mất trong bầu trời,“ Ta đã trả lời.

Vị thầy nói, “Sự giác ngộ đó có thể thay đổi, đừng chối bỏ nó! Không cần phải chia tách khỏi sự giác ngộ đó, hãy đi tới đâu mà con muốn! Hãy giữ đạo hạnh của con ứng hợp với tam tạng kinh. Hãy giữ sự thiền định của con phù hợp với mật chú. Hãy giữ cái thấy của con phù hợp với đại viên mãn dzogchen. Hãy hoàn thành những mục đích của chúng sinh như một viên ngọc như ý. Hãy chăm sóc, duy trì đông các đệ tử xứng đáng! Mặc dù con không có tham vọng, mong muốn nào nhưng hãy luôn dâng những cúng dường tới các vị Đạo Sư (Guru), Bổn Tôn (Yidam) và Dakini. Con sẽ trở thành một bậc mà tám cấp quỷ thần phục tùng, chăm sóc như một tôi tớ trung thành.” Nói như vậy rồi ngài rời đi.

Sau đó, Ta đã nắm lấy điểm mấu chốt sự thật rằng vạn pháp thì giống như mộng huyễn và ảo ảnh, và cái tâm đó tự nó đã vượt lên khỏi sinh và tử. Ta đã có những linh ảnh của các bổn tôn từ các nghi quỹ tám vị heruka, tám cấp quỷ thần trở thành những người tùy tùng phục vụ của mình và Ta đã lang thang qua nhiều vùng xứ Ấn làm lợi lạc cho chúng sinh. Sau đó khi (Vua Trisong Deutsen) khởi công xây dựng thánh tích Samye, tám cấp quỷ thần đã gây các chướng ngại. Ta đã bảo họ: “Không tốt để gây các chướng ngại, vì ý định của nhà vua thì tuyệt hảo như vàng ròng!

Chúng quỷ thần đã hỏi vặn lại: “Tại sao tự ngài không tới đây, hỡi vị minh sư!”

Và rồi Ta đã tới Xứ Tuyết trong thân tướng con người và trên đường đi Ta đã gặp những sứ giả (từ vua Trisong Deutsen, những người đã được gửi tới để thỉnh mời Ta).

Ta, Padma của xứ Uddiyana,

Đi theo đức thầy Shri Singha.

Đây, huấn thị cuối cùng của ngài,

Đã giải thoát Ta, Padma.

Tuy không giải thoát bởi tam tạng kinh hay mật chú,

Ta được giải thoát nhờ giáo huấn bí mật này.

Cầu mong tất cả những người xứng đáng được giải thoát nhờ điều này.

Cầu mong huấn thị cuối cùng và trực chỉ

Của Guru Shri Singha

Khế hợp với một người xứng đáng, người sở hữu sự huân tập trước đó!

Điều này được cất dấu trong Động Pha Lê Liên Hoa.

Ta giao phó nó cho con, Shampo (4)

Trong tình huống một người không xứng đáng tới.

Sẽ không có huấn thị như thế này trên thế gian.

Samaya Rgya Rgya Rgya

(Ấn Ấn Ấn)

Ấn niêm giao phó

Ấn niêm giữ bí mật

Ithi

(4)Daklha Shampo là một trong những tinh linh địa phương Tây Tạng, bậc đã đảm bảo canh giữ các kho tàng giáo huấn của ngài.

Đức Liên Hoa Sinh
Trích trong Những kho tàng từ đỉnh cây tùng xù