Những chướng ngại của thực hành thiền định

Có bốn loại lạc: “Phúc lạc cảm nhận” là tự do khỏi các điều kiện đối nghịch của không hoà điệu. “Lạc không có tưởng” là tự do khỏi sự đau khổ của ý niệm, danh tướng. “Lạc bất nhị” là tự do khỏi sự bám níu, sự trụ tướng nhị nguyên. “Lạc vô điều kiện” là tự do khỏi nguyên nhân và điều kiện.

Khi các loại kinh nghiệm này sanh khởi, con cần ba thứ xả ly: “Xả ly lạc” là giống như một người điên. “Xả ly sự trong sáng” là giống như giấc mơ của một trẻ nhỏ. “Xả ly vô niệm” là giống như một thiền giả đã hoàn thành sự tu hành thiền định của mình. Khi con có các thứ này, con thoát khỏi các khuyết điểm của thiền định.

Nếu con bị hấp dẫn và bám níu vào ba kinh nghiệm này, con lạc vào ba cõi. Khi bám níu vào lạc, con sẽ lạc vào Dục giới. Khi bám vào sự trong sáng, con sẽ lạc vào Sắc giới. Khi bám vào vô niệm, con sẽ lạc vào Vô sắc giới.

Dầu cho con nghĩ rằng: Con không dính cũng không bám vào chúng, con cũng còn một sự dính chấp vi tế bên trong. Để cắt đứt cái bẫy này, có chín trạng thái định liên tiếp nhau, khởi đầu bằng bốn thiền để xa lìa tư tưởng tham ái. “Sơ thiền” là thoát khỏi ý tưởng về người tri giác và cái được tri giác, nhưng vẫn còn nằm trong sự phân biệt một đối tượng và hành động tham thiền. “Nhị thiền” là thoát khỏi ý tưởng và phân biệt, trong khi còn trụ vào sự thưởng thức mùi vị vui sướng của định. “Tam thiền” là đạt đến tâm không động, nhưng còn hơi thở vào và hơi thở ra. Định của “Tứ thiền” hoàn toàn thoát khỏi tư tưởng ý niệm với sự tri giác trong sáng, không bị che chướng.

Bốn thiền vô sắc tẩy trừ tư tưởng ý niệm về sắc giới. Trụ vào ý tưởng “tất cả hiện tượng đều như hư không”, con lạc vào Không vô biên xứ. Trụ vào ý tưởng “thức là vô cùng và không phương hướng”, con lạc vào Thức vô biên xứ. Trụ vào ý tưởng “Cái biết trong sáng là không hiện diện, không vắng mặt và không thể tạo thành một đối tượng của tri thức”, con lạc vào Không hiện diện cũng không vắng mặt (Vô sở hữu xứ). Trụ vào ý tưởng “Tâm này không nhờ vào một thực thể nào; nó là vô hữu và trống không”, con lạc vào cõi tri giác về Không có gì tất cả. Các trạng thái này còn có sự nhiễm ô vi tế của ý niệm danh tướng, sự hấp dẫn thuộc về tâm thức và các kinh nghiệm của tâm nhị nguyên.

Diệt thọ tưởng định xa lìa các ý niệm về các trạng thái này. Sự dừng bặt thuộc về phân tích là sự dừng dứt của sáu thức đi vào với các đối tượng của chúng, nó gồm cả sự cắt đứt hoạt động của hơi thở và tâm nhị nguyên. Sự dừng bặt thuộc về không phân tích là đi đến tự tánh của con. Đó là sự thản nhiên tối hậu.

Trong chín cấp bậc định này, bốn trạng thái thiền là “Chỉ sanh ra Quán”. Như thế, định của bốn thiền này là hoà hợp với tự tánh, và là cái trổi vượt nhất trong mọi loại định thuộc về thế gian.

Bốn thiền vô sắc là các bẫy của định. Diệt thọ tưởng định là cái định bình an của bậc Thanh văn.

Bằng sự hiểu biết những trạng thái này, con có thể phân biệt các loại định khác nhau, xoá tán các chướng ngại trong thực hành thiên định và không đi lạc.

Năm con đường bao gồm trong ba. Cắt đứt các bẫy này và thực hành một thiền định không khuyết điểm, con an trụ thanh tĩnh và sống động trong phúc lạc, trong sáng và vô niệm suốt trạng thái thiền định. Trong trạng thái sau thiền định, các hình tướng khởi lên không ngăn chướng, đều vô tự tánh như một giấc mộng hay ảo huyễn. Con biết được bản tánh của nhân và quả, làm đầy công đức đến mép, đạt được “hơi ấm của định” và như thế hoàn thành “con đường tích luỹ”.

Thực hành như thế một thời gian dài, con thấy được một cách hiện thực, bản tánh vô trụ và tự chiếu hiện diện nơi con. Nhận ra bản lai diện mục của con là con đường của cái thấy. Kinh nghiệm các tướng, trí huệ tánh Không là vô sở trụ và tự thông tỏ, tức là con thấy trực tiếp bản tánh bổn nhiên không tuỳ thuộc điều kiện. Sự ngăn che của phiền não bị phá huỷ tận gốc rễ. Chứng ngộ rằng: Nhân và quả đều trống không, sanh tử không có hiện hữu chắc thật. Đây gọi là địa đầu tiên, Hoan Hỷ địa. Trạng thái thiền định không lìa rời Phật tánh và mọi sự sau-thiền-định sanh khởi như ảo huyễn.

Quen dần với trạng thái này và hộ trì nó một cách vững chắc, mọi hiện tượng trở nên bất nhị. Hãy nhận biết chúng như là tự tâm hiện, các hình tướng và tâm hoà trộn thành một. Khi tánh Không sanh khởi như nhân và quả, con chứng ngộ duyên sanh. Suốt trạng thái thiền định mọi hiện tượng là không chỗ trụ và hiện diện như tính chất của tánh Giác. Sự hiện diện nhẹ nhàng của các hình tướng bên ngoài trong thời gian sau thiền định là con đường của sự tu tập.

Duy trì điều ấy một thời gian dài, con chứng ngộ rằng sanh tử và Niết bàn là bất nhị. Vượt khỏi sanh tử và diệt, là vô trụ xứ và tự thông tỏ không trộn lẫn nhiễm ô, rốt ráo hoàn thiện. Sự che chướng trí huệ hoàn toàn biến mất, vào khoảnh khắc tất cả mọi sự hiện ra như tánh Giác bổn nguyên là con đường thành tựu, tức là trạng thái Phật tánh.

Đức Liên Hoa Sinh
Trích trong Những lời khai thị của Đức Liên Hoa Sinh về con đường của Đại Toàn Thiện