Các loại Pháp bảo trong Phật Giáo Tây Tạng

Phật giáo Tây Tạng cuốn hút với nhân loại không chỉ bởi những tinh hoa pha trộn giữa Đại thừa phái (Mahayana), Mật tông (Tantrayana), và tôn giáo cổ Tây Tạng (với Bon giáo là điển hình) mà còn bởi những văn vật để lại cho đời. Có lẽ không nơi đâu trên trái đất này lại quy tụ đầy đủ và nhiều di chỉ Phật giáo như Tây Tạng, từ đền chùa thành quách đại viện tiểu viện cho đến tượng Phật, kinh sách luật tuyển, cờ phướn; rồi đồ dùng trong lễ bái, tán tụng, cúng dường, trì nghiệm, hộ ma, khuyến đạo … dường như không thống kê nào kể xiết! Trong bài viết ngắn ngủi này, người viết không đủ khả năng và cũng không có tham vọng tổng kết hết những tinh tuý của nơi đây, chỉ muốn dành đôi dòng nhắc đến những văn vật thường gặp trên đường khám phá Tây Tạng.

Cờ Lungta ngũ sắc

Đi thăm Tây Tạng nói riêng và các quần thể Phật giáo nói chung, du khách hay bắt gặp các cờ phướn 5 màu tung bay trong gió. Nếu để ý kĩ, cờ ngũ sắc Tây Tạng có 5 màu (trắng, đỏ, lục, vàng, lam) hơi khác so với lá cờ Phật giáo (trắng, đỏ, cam, vàng, lam). Một trong các lý do có thể giải thích là: lá cờ Phật giáo chính thức ra đời năm 1889, còn Phật giáo Tây Tạng mà ảnh hưởng bắt nguồn từ Ấn Độ giáo thì đã có từ lâu đời, trải qua thời gian sẽ xuất hiện vài sai khác, tuy nhiên điều này không làm thay đổi ý nghĩa biểu trưng.

lungta1

Số 5 không chỉ tượng trưng cho Ngũ Hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) tương sinh tương khắc làm nên vạn vật, còn ứng với Ngũ Trí của Mật tông miêu tả về trí của con người (Pháp giới trí, Đại viên kính trí, Bình đẳng tính trí, Diệu quan sát trí, Bình đẳng tác trí), đồng thời hợp với Ngũ Uẩn (Sắc, Thụ, Tưởng, Hành, Thức) là 5 yếu tố tạo thành thân tâm, và là Ngũ Bộ Chú – nghi thức trì niệm của Mật Giáo (Tịnh Pháp Giới, Văn Thù Nhất Tự Hộ Thân, Lục Tự Đại Minh, Chuẩn Đề Cửu Thánh, và Nhất Tự Kim Luân Phật Đỉnh); nhưng trên hết là biểu thị sức mạnh và sự thống nhất giữa Ngũ Phương và Ngũ Phật:

Ngũ Phật (Five Wisdom Buddhas) có thể coi là biểu hiện siêu việt nhất trong thế gian, các vị này là thầy của các Bồ Tát. Đồng thời, trong mỗi thời đại loài người, các vị lại hoá thân thành Phật lịch sử – có hình dạng người sống trên thế gian. Trong thời đại chúng ta, vị Phật lịch sử đó chính là Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni Buddha), còn vị Phật được tin rằng sẽ xuất hiện trong tương lai (Future Buddha) là Phật Di Lặc (Maitreya Buddha). Vì thế mỗi khi nhắc đến Ngũ Phương Phật, người ta sẽ nhắc đến vị Phật lịch sử và vị Bồ Tát tương ứng:

– Trung ương: Đại Nhật Như Lai (Tathagata); Phật lịch sử là Ca-la-ca-tôn-đại (Krakuccanda) và Phổ Hiền Bồ Tát (Samantabhadra)

– Hướng Đông: Bất Động Như Lai (Aksobhya); Phật lịch sử là Ka-na-ca-mâu-ni (Kanakamuni) và Kim Cương Bồ Tát (Vajrapani)

– Hướng Nam: Bảo Sinh Phật (Ratnasambhava); Phật lịch sử là Ca-diếp (Kasyapa) và Bảo Thủ Bồ Tát (Ratnapani)

– Hướng Tây: Di Đà Phật (Amitabha); Phật lịch sử là Thích-ca-mâu-ni (Shakyamuni) và Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokitesvara)

– Hướng Bắc: Bất Không Thành Tựu Phật (Amoghasiddhi); Phật tương lai là Di-lặc (Maitreya) và Phổ Chùy Thủ Bồ Tát (Vishvapani)

Quan niệm trên chỉ xuất hiện từ khi Đại thừa Phật giáo ra đời, và càng được củng cố bởi Mật tông Tây Tạng, điều đó cho thấy sự khác biệt và phức tạp, bao hàm muôn yếu tố trong Phật giáo Tây Tạng. Đi khắp cao nguyên Thanh-Tạng, du khách sẽ gặp rất nhiều nơi thờ cúng Ngũ Phật cũng như các Phật lịch sử và chư vị Bồ Tát, bên cạnh các vị Tạng vương và Đạt Lai Lạt Ma, Ban Thiền Lạt Ma. Những sự sắp xếp trên luôn có nghiêm luật chặt chẽ mà hiếm có ai hiểu được, thậm chí phần lớn chúng ta không bao giờ hiểu rõ được mà chỉ biết chiêm bái để kính phục trí tuệ, công sức và sự sáng tạo của người xưa!

Tượng Phật

Tượng Phật Tây Tạng nổi trội hơn so với bất cứ nơi nào trên thế giới bởi sự đa dạng phong phú về thể loại, mỗi tượng lại xuất xứ từ nhiều nguồn khác nhau (Ấn Độ, Nepal, Trung Quốc, bản địa), hình thái phong cách dáng ngồi tay ấn nét mặt màu sắc trang phục đều cực kỳ sinh động, toát lên những nét riêng của văn hoá Phật giáo Mật tông huyền bí. Nhìn ngắm mỗi bức tượng Tây Tạng, du khách sẽ bị thu hút bởi đôi mắt Phật không phải lúc nào cũng hiền từ nhìn xuống mà đôi khi mở to nhìn thẳng hay nhắm mắt, tuỳ thuộc theo tư thế thiền định và mỗi dáng ngồi, sau đó là những phù điêu trang trí nhiều tầng bao quanh tượng và cả chân bệ. Người Tạng còn dùng vàng, bạc, đồng, các kim loại quý và ngọc thạch, hổ phách, đá quý … để tô điểm thêm cho tượng, nâng giá trị của các bức tượng lên tầm có một không hai, trở thành tài sản vô giá của dòng Phật giáo nơi đây. Tây Tạng có những bức tượng cá biệt đến vài nghìn năm tuổi được trưng bày bên trong cung Potala. Thường các tu viện lớn và cung Potala đều cấm chụp ảnh nên cách tốt nhất có lẽ là một lần đến Tây Tạng để được chiêm ngưỡng những bảo vật truyền đời nơi đây.

Buddha_statue_inside_a_Tibetan_Buddhist_temple,_SarnathTranh tường:

Murals hay các bích hoạ vẽ trên tường là hình thức nghệ thuật nổi tiếng của Tây Tạng, không chỉ mang tính trang trí làm đẹp với sắc màu cực kỳ sặc sỡ, những bức mural còn biểu hiện đức tin cổ giáo của người Tạng vào trời đất cỏ cây sông hồ núi tuyết, đôi khi là hình thức kể chuyện thuật lại tích cũ việc xưa trong quá trình gây dựng và hoằng trương tông phái, có lúc lại khắc hoạ chân dung những vị Phật, Bồ Tát, La hán, Hộ pháp, Tạng vương cũng như danh sư đạo Phật. Được biết chất liệu để vẽ tranh tường đều dùng nguồn nguyên liệu sẵn có ở mỗi địa phương, qua các công thức pha tạo màu cộng với chất liệu tự nhiên khả năng bảo vệ bức tranh theo thời gian hàng trăm năm mà không phai nhạt hay hư hại gì!

13 Rongbuk Monastery Main Chapel Wall Painting Of Padmasambhava Guru Rinpoche

Thangkas:

Thangka cũng là các bức tranh Phật giáo bắt nguồn từ Nepal và du nhập vào Tây Tạng từ thời vua Tùng Tán Cương Bố lấy công chúa Nepal Ba Lợi Khố Cơ. Thangka Tây Tạng có thể xem là đỉnh cao của nghệ thuật tượng hình (Iconography) mà đề tài thường gặp là các bức vẽ về cuộc đời Phật Thích Ca Mâu Ni, Pháp luân, Phật Dược Sư, các tư thế toạ thiền, các vị hộ pháp và quỷ thần … Được biết Thangka được vẽ trên vải dệt sợi đay, rồi dùng mật của giống trâu Yawk trộn với bột đá để bồi mặt vải cho mịn, sau đó căng tấm vải đã bồi lên khung gỗ và dùng các loại màu khoáng hay bột vàng để vẽ. Tranh Thangka sau đó được khâu vào khung bằng lụa để dễ dàng cuộn lại, tiện lợi cho việc di chuyển và bảo quản.

Người ta tin rằng Thangka không chỉ cảm nhận được bằng mắt mà còn bằng tâm, việc chiêm bái Thangka một cách trang nghiêm sẽ giúp Phật tử nhập tâm, hoá thân với đối tượng được vẽ trong tranh, cảnh giới này có lẽ chỉ được nội truyền trong các tông phái mà không truyền cho người ngoài. Màu sắc sử dụng trong Thangka cực kỳ sinh động, sặc sỡ và chi tiết tới từng đường nét nhỏ. Chính bởi tính độc đáo của Thangka và ảnh hưởng tín ngưỡng của nó mà người đời sinh ra sùng bái và ham thích sở hữu Thangka, phá vỡ quy luật gốc của tranh là không được trao đổi mua bán! Ngày nay Thangka đã thương mại hoá, việc sao chép, vẽ lại và buôn bán trở nên phổ biến tại thị trường các nước; tuy nhiên vẻ đẹp và sự tinh xảo thì kém xa những Thangka hàng nghìn tuổi của vùng Tây Tạng. Do đó đến Tây Tạng ngắm những bức Thangka cổ đại, người ta vẫn rung động và trân trối bởi nét độc đáo đầy tính Chân Thiện Mỹ toát lên từ mỗi bức tranh.

2015-07-21-When-the-Ancient-Thangka-1

Trường phái Thangka Tây Tạng nổi bật lên với 2 tên tuổi: Khentse Chenmu School và Menthang School, tác phẩm của 2 trường phái này du khách sẽ bắt gặp nhiều khi đi thăm quan hành cung Potala

Mandala:

Mandala cũng là những bức hoạ hình giống như Thangka, điểm khác biệt ở đây là Mandala luôn chú trọng vào các hình vẽ vòng tròn biểu thị cái nhìn của người Tạng về thế giới và vũ trụ, trong đó hoạ hình các đức Phật hay Bồ Tát hoặc những biểu tượng Phật giáo. Điểm độc đáo ở Tây Tạng là có những mandala cỡ lớn và cực lớn bằng cát, có Mandala ba chiều mô phỏng các cung điện, và đặc biệt là các tu viện được xây theo kiến trúc Mandala như tu viện Samye (Samye Monastery) đã có dịp nhắc đến trong phần 1 về Phật giáo Tây Tạng.

mandala

Bảo tháp

Bảo tháp (hay Chorten) xây theo dạng hình tháp, được coi như ngôi nhà lưu giữ phần hồn, cũng giống như các pho tượng được xây để lưu giữ phần xác vậy. Ở Tây Tạng, stupas có mặt ở khắp mọi nơi, không chỉ là nơi chứa tro cốt di hài mà còn chứa những vật dụng bình sinh được Đức Phật hay các môn đệ sử dụng; qua đó thể hiện sự tôn kính của người dân đến di thể của Phật.

stupa

Bảo tháp thường gặp gồm nhiều tầng: tầng đáy thấp nhất tượng trưng cho 10 điều tâm niệm (Thập tâm hạnh), tầng tiếp theo gồm 4 bậc tượng trưng cho Tứ Diệu Đế (Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế, Đạo Đế) và Tứ Thần Túc (Dục, Tinh, Tâm Quán), phần trên nữa có dạng bầu là biểu hiện của Ngũ Căn (Tín căn, Tấn căn, Niệm căn, Định căn, Huệ căn) và Ngũ Lực (Tín lực, Tấn lực, Niệm lực, Định lực, Huệ lực), phía trên là 13 bậc thang dẫn lên cao tượng trưng cho đường tới cõi Niết bàn chỉ có thể thông qua Bát Chính Đạo, và trên cùng luôn là mặt trăng và mặt trời biểu thị sự minh triết soi sáng mọi vật.

stupa 2

Nổi bật phải kể đến bộ 8 Bảo tháp lớn (Eight Great Stupas) kể lại những thành tựu trong cuộc đời tu hành đắc đạo của Phật Thích Ca Mâu Ni; và các Stupa Tomb bằng vàng ròng cực lớn của các đời Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng lưu giữ bên trong cung Potala:

Những chi tiết thú vị khác của văn vật trong Phật giáo Tây Tạng sẽ được nhắc lại khi cùng bạn đọc đi qua những địa danh ở Tây Tạng ở các bài viết tiếp theo.

Lê Minh Hưng
Nguồn: tổng hợp – icouple.sg