Tài hoa những người thợ Ngũ Xã

Tinh hoa làng nghề đúc đồng Ngũ Xã

Nghề đúc đồng truyền thống của Việt Nam đã có từ bao đời nay. Thời Vua Hùng dựng nước đã có các khí vật được đúc bằng đồng như mũi tên, ngọn giáo. Và trên các linh vật như trống đồng Đông Sơn, trống đồng Ngọc Lũ… được trạm trổ những đường nét hoa văn, các biểu tượng đặc trưng của dân tộc như chim hạc rất tinh xảo. Điều này minh chứng cho kỹ thuật đúc đồng của những người thợ Việt Nam sớm đạt đến nghệ thuật tài hoa.

Vị trí địa lý, đất làng

Trong nhiều thế kỷ, vùng đất Ba Đình là nơi tập trung nhiều làng nghề truyền thống nổi tiếng của kinh thành Thăng Long, như nghề dệt lĩnh hoa Yên Thái, nghề làm giấy dó cũng ở Yên Thái, làng trồng hoa Ngọc Hà, Nghi Tàm và đặc biệt là nghề đúc đồng của làng Ngũ Xã. Khi kể đến các làng nghề đúc đồng nổi tiếng trên cả nước, không thể không nói đến làng đúc đồng Ngũ Xã.

Làng Ngũ Xã nằm bên hồ Trúc Bạch, thuộc thôn Ngũ Xã, tổng Thuận Thành, huyện Vĩnh Thuận, phía Tây thành Thăng Long. Khi chưa có đê Cổ Ngư (nay là đường Thanh Niên), hồ Trúc Bạch thông với Hồ Tây, tạo nên một vùng hồ nước mênh mông, bao bọc xung quanh làng Ngũ Xã, chỉ có con đường độc đạo dẫn vào làng. Chính vì vậy, có thể hình dung về địa thế làng Ngũ Xã như một bán đảo. Đây là điều kiện phù hợp để phát triển làng nghề, thuận lợi cả đường bộ lẫn đường thủy trong hoạt động vận chuyển nguyên vật liệu và trao đổi, mua bán sản phẩm.

Làng Ngũ Xã có lịch sử hình thành khá lâu đời, tính đến nay khoảng 500 năm. Tên Ngũ Xã của làng được gắn liền với lịch sử hình thành làng. Theo sử sách ghi chép lại, vào thời nhà Lê (1428 – 1527) triều đình tập hợp những thợ đúc đồng giỏi ở năm xã của huyện Siêu Loại (nay là Thuận Thành, Bắc Ninh) và huyện Văn Lâm, Hưng Yên, gồm các xã Đông Mai, Châu Mỹ, Lộng Thượng, Đào Viên và Điện Tiền về kinh thành lập Trường đúc tiền và đồ thờ cho triều đình, gọi là Tràng Ngũ Xã. Theo đó, người dân ở năm xã đã kéo về Thăng Long lập nghiệp, chọn vùng đất bên bờ hồ Trúc Bạch để an cư. Để ghi nhớ năm làng quê gốc của mình, người dân đã lấy tên làng là Ngũ Xã.

Với diện tích tự nhiên nhỏ hẹp 0,23 km2, nên người dân làng Ngũ Xã không làm nông nghiệp. Ngay từ khi lập làng, người dân đã coi nghề thủ công đúc đồng là nghề sản xuất chính, mang tính chuyên nghiệp. Dân cư làng Ngũ Xã trong giai đoạn này khá đồng nhất về mặt nghề nghiệp. Đại bộ phận dân cư trong làng tập trung chủ yếu phục vụ cho quá trình sản xuất, vận chuyển và tiêu thụ các sản phẩm của làng nghề.

Những di tích mang đậm giá trị lịch sử – văn hóa

Làng Ngũ Xã không chỉ lưu truyền cho muôn đời là làng nghề thủ công nổi tiếng của đất Thăng Long mà còn để lại những di tích mang đậm giá trị lịch sử – văn hóa, với chùa Ngũ Xã hay còn gọi là chùa Thần Quang và đình Ngũ Xã.

* Đình Ngũ Xã :

Chính trong quá trình dựng làng lập nghiệp, những người dân Ngũ Xã đã xây ngôi đình làng thờ ông tổ sư nghề đúc đồng. Theo tương truyền, ông có pháp danh là Minh Không Thiền Sư, tên thật là Nguyễn Chí Thành (1066 – 1141), người làng Đàm Xá, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Năm 11 tuổi ông xuất gia tu hành. Ông là học trò tài giỏi, thông minh của thiền sư Từ Đạo Hạnh và trở thành  bậc đại sư thông tuệ Phật pháp, được giới Tăng ni ngưỡng vọng và được đức vua kính trọng bởi ông là một danh y. Năm 1136, do chữa khỏi bệnh cho vua Lý Thần Tông nên ông được phong là Lý Triều Quốc sư.

Không chỉ là một bậc đạo sư thông tuệ Phật pháp, một danh y nổi tiếng mà Minh Không Thiền Sư được các làng nghề đúc đồng suy tôn là ông tổ của nghề đúc đồng. Ông chính là người đã sang Trung Quốc gặp triều đình nhà Tống học hỏi và quyên giáo đồng để đúc “An Nam tứ đại khí” đời Lý – Trần. Đó là: tượng Phật cao 20m tại chùa Quỳnh Lâm (Đông Triều, Quảng Ninh); tháp Báo Thiên (Thăng Long) gồm 12 tầng, cao 70m; chuông Quy Điền tại chùa Một Cột và vạc Phổ Minh tại chùa Phổ Minh (Thiên Trường, Nam Định) cao 4 thước, rộng 10 thước, nặng 6150 cân đồng, to đến mức 2 người có thể đuổi nhau trên miệng vạc.

Đình Ngũ Xã được xây dựng vào năm 1796 và đã trải qua nhiều lần trùng tu. Nhìn tổng thể, kiến trúc của đình theo kiểu chữ “đinh” khá bề thế, có tường xây biệt lập với xung quanh. Phần cổng đình mới được làm lại cách đây chưa lâu theo kiểu dáng nguyên gốc với hai cột cao to đắp hình đôi nghê chầu vào nhau. Nối hai cột này ở phía trên là một bức bình phong, phía dưới là một bộ cửa gỗ tốt được chạm trổ công phu.

Bước vào nhà đại bái gồm năm gian, người xem bị choáng ngợp về hệ thống cửa võng, hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng với nội dung ca ngợi công đức của vị tổ nghề đúc đồng. Tòa ống muống được làm theo kiểu vì kèo, bên ngoài là khu vực ban thờ, sập thờ, bên trong là cung cấm có tượng Thiền sư Minh Không bằng gỗ cao khoảng 1,7m. Đây là nơi linh thiêng nhất của ngôi đình, nằm sâu bên trong hai cửa bên trái, bên phải được tạo tác theo kiểu chấn song con tiện và bộ cửa giữa được chạm thủng đề tài tứ quý.

Hiện nay, đình Ngũ Xã còn lưu giữ được một quả chuông đồng, ba đạo sắc phong từ năm Tự Đức thứ 3 (1850) đến năm Khải Định thứ 9 (1924). Có thể thấy ở ngôi đình này giá trị lịch sử và giá trị kiến trúc nghệ thuật đã hòa quện, đan xen vào nhau, khiến khách tham quan ngoài việc kính cẩn thắp hương tưởng nhớ tổ nghề, còn cảm nhận được vẻ đẹp của di tích qua bàn tay khéo léo và óc thẩm mĩ, sáng tạo của nghệ nhân thuở xưa.

Hàng năm, cứ đến ngày mồng 1 tháng 11 Âm lịch, dân làng lại tổ chức giỗ Tổ tại đình làng, duy trì nền nếp văn hóa dân tộc, để con cháu khắp nơi về thắp hương tưởng niệm.

* Chùa Ngũ Xã (Chùa Thần Quang)

Chùa Thần Quang được xây dựng từ thế kỷ 18 thời hậu Lê (1428 – 1788). Chùa được xây dựng bởi bàn tay những người thợ thủ công đến lập nghiệp, hình thành nên làng Ngũ Xã, nhằm phục vụ cho nhu cầu tín ngưỡng. Sau khi bị hỏa hoạn, năm 1949 Hòa thượng Thích Mật Đắc đã cho xây dựng lại chùa Thần Quang hoàn toàn theo kiến trúc hiện đại, việc xây dựng hoàn thành vào năm 1951.

Kiến trúc của chùa Thần Quang có tam quan, chùa chính gồm 5 gian và điện thờ. Giữa điện có pho tượng Phật Di Đà, là một công trình nghệ thuật nổi tiếng, tượng được đúc cùng thời gian dựng lại chùa. Đây là một pho tượng có giá trị mỹ thuật cao của nghề thủ công đúc đồng Ngũ Xã. Tại chùa còn có lư hương bằng đồng nặng 300 kg, cao 0,76m và hai cây đèn bằng đồng, mỗi cây nặng 300 kg, cao 1,2m. Ngoài ra chùa còn lưu giữ 16 bia đá dựng từ năm 1919 đến năm 1947.

 Ngày 11 – 5 – 1993, Chùa Thần Quang đã được Bộ Văn Hóa và Thông Tin xếp hạng là di tích kiến trúc, nghệ thuật. Hiện nay chùa Thần Quang do Thượng tọa Đức Thích Chính Tín – Ủy viên Ban trị sự Thành hội Phật Giáo Hà Nội trụ trì.

Đình và chùa Ngũ Xã như một điểm nhấn giữa bán đảo xinh đẹp bên hồ Trúc Bạch. Nơi đây đã trở thành một điểm du lịch hấp dẫn khách tham quan. Đến với các di tích này, du khách không chỉ tìm về cõi hư ảo của thế giới tâm linh, mà còn để chiêm bái một trong những nghề thủ công nổi tiếng của đất Thăng Long.

Tinh hoa các tượng đồng Ngũ Xã

Với nguồn gốc từ các làng nghề nổi tiếng của Bắc Ninh và Hưng Yên, người dân Ngũ Xã đã lập nên làng nghề đúc đồng mới. Về sau làng được tổ chức thành phường nghề riêng, gọi là phường đúc đồng Ngũ Xã, đưa nơi đây trở thành một làng nghề thủ công nổi tiếng của đất Thăng Long. Ban đầu làng Ngũ Xã chuyên đúc tiền và đồ thờ cho triều đình. Cùng thời gian và sự phát triển của nghề đúc đồng, những nghệ nhân và người thợ của làng còn đúc các đồ dùng thiết thực phục vụ đời sống hàng ngày của người dân như : mâm, nồi, xanh, chậu… và sau đó đúc thêm đồ thờ cúng như : tượng, bát hương, đỉnh, đèn nến, lọ hoa… Những sản phẩm trên đã đóng góp đáng kể vào đời sống kinh tế, văn hóa, tâm linh của người dân đất Việt. Qua nhiều thế kỷ, tên Ngũ Xã – làng đúc đồng đã trở nên gần gũi, quen thuộc với người dân khắp các vùng miền. Do vậy, trong dân gian có lưu truyền câu vè ca ngợi nghề đúc đồng Ngũ Xã là một bốn trong nghề tinh hoa bậc cao của Thăng Long xưa.

“Lĩnh Hoa Yên Thái

Đồ gốm Bát Tràng

Thợ vàng Định Công

Thợ đồng Ngũ Xã”

Từ xưa làng nghề Ngũ Xã đã rất nổi tiếng cả trong và ngoài thành Thăng Long nhờ kỹ thuật đúc tượng đồng, trống đồng, đồ thờ bằng đồng, chuông đồng, tranh đồng với những nét tinh hoa bậc nhất. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử những sản phẩm đúc đồng của làng Ngũ Xã trước đây và cả hôm nay vẫn khẳng định được sự tinh xảo, tính nghệ thuật và thể hiện được tâm hồn của những nghệ nhân của kinh thành Thăng Long xưa và nay. Nhiều tác phẩm đã được coi là kiệt tác của nghệ thuật đúc đồng Việt Nam.

Hai tác phẩm nghệ thuật nổi bật nói lên trí tuệ, tài năng, bản sắc bí quyết và sự lao động cần mẫn, giàu sáng tạo của các nghệ nhân, thợ đúc đồng Ngũ Xã là tượng đồng đen Trấn Vũ, còn gọi là tượng Huyền Thiên Trấn Vũ đặt tại đền Quán Thánh và pho tượng Phật Di Đà được đặt tại chùa Thần Quang, ngay trên đất làng.

* Pho tượng Huyền Thiên Trấn Vũ :

Pho tượng Huyền Thiên Trấn Vũ  cao 3,9m, nặng khoảng 4 tấn, chu vi 8m, được đúc năm 1677. Người dân Hà Nội cũng như các du khách trong và ngoài nước khi đến đền Quán Thánh, được chiêm ngưỡng bức tượng đồng đen do những đôi bàn tay khéo léo, tài hoa của những người thợ Ngũ Xã sẽ không khỏi trầm trồ thán phục trước sự tinh xảo trên từng đường nét của bức tượng. Tác phẩm này đã khẳng định vị thế to lớn của làng nghề đúc đồng Ngũ Xã đối với đất nước nói chung cũng như đời sống tâm linh của người dân đất Việt.

* Pho tượng Phật Di Đà :

Cùng với đó, sự khẳng định “Ngũ Xã là một làng nghề truyền thống nổi tiếng của đất Thăng Long” còn chính bởi pho tượng Phật Di Đà. Pho tượng này đã được Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam xác nhận là bức tượng Phật làm bằng đồng lâu đời nhất Việt Nam. Đây là một tác phẩm nghệ thuật bằng đồng kỳ vĩ, độc đáo, tinh tế trên mọi phương diện, cả về kỹ thuật và nghệ thuật đúc đồng. Tượng được bố cục hết sức hài hòa. Vẻ mặt đức Phật hiền từ, trầm tĩnh, gần gũi. Từ thân hình, dáng ngồi đến nếp áo đều toát lên sự trầm lắng sâu xa, nhưng lại sống động như người thật. Những số đo của từng chi tiết được tính toán kỹ lưỡng và ước lượng chuẩn xác bởi nghệ nhân tạo mẫu và chỉ huy đúc tượng.

Tượng Phật Di Đà được đúc liền khối bằng đồng, có chu vi chiều ngang 11,6m, cao 3,95m, khoảng cách giữa hai đầu gối 3,6m. Tượng tọa lạc trên tòa sen bằng đồng có 96 cánh, cao 1,45m. Tính cả tượng và tòa sen làm đế, pho tượng nặng 12.300kg và cao 5,4m. So với tượng đồng Huyền Thiên Trấn Vũ ở đền Quán Thánh thì pho tượng Phật Di Đà to gấp bốn lần.

Người có chủ trương làm bức tượng Phật Di Đà là Thượng tọa Thích Vĩnh Tường, Trụ trì chùa Ngũ Xã lúc đó. Đạo Phật là sự trường tồn, do vậy Thượng tọa mong muốn làm một pho tượng lớn để thờ trong chùa, nó sẽ trường tồn vĩnh hằng ở mọi thời đại.

Biết nhà chùa có ý định làm bức tượng đó, dân làng Ngũ Xã rất hứng khởi. Ban trị sự của làng đã họp và cử ra những người có tay nghề cao nhất để đảm đương từng phần công việc. Mọi người trong làng dù nhiều người có tay nghề cao nhưng không ai đứng ra nhận làm. Nguyên nhân của việc này là do bức tượng vô cùng lớn, lại làm hoàn toàn bằng kỹ thuật thủ công truyền thống nên ai cũng nghĩ sẽ gặp nhiều rủi ro khi thực hiện. Cuối cùng, các cụ trong làng quyết định bầu kiến trúc sư Nguyễn Văn Tùy làm tổng chỉ huy công việc đúc tượng, ông là người có trình độ cao, từng học bên Nhật, bên Trung Quốc. Cả phường đúc đồng Ngũ Xã tập trung những người thợ tài hoa nhất. Công việc chuẩn bị phải mất ba năm, từ năm 1949 đến năm 1952, để tiến hành đúc trong hai giờ đồng hồ.

Thời điểm đó, để đúc bức tượng như vậy rất phức tạp. Máy móc không có, điện cũng không có, tất cả các công đoạn hoàn toàn làm bằng thủ công. Khâu nặn tượng để đúc là quan trọng nhất, các nghệ nhân trong làng với người đứng đầu là nghệ nhân Nguyễn Phú Hiếu phải nặn đi nặn lại cho thật ưng ý thì thôi và phải mất nửa năm mới hoàn thành khâu nặn tượng bằng đất. Sau đó chuyển sang làm tượng bằng xi măng, cuối cùng mới làm khuôn để đổ đồng. Để làm pho tượng, những người thợ phải dùng đến 70 tấn đất sét và giấy bản để làm khuôn.

Trước khi đổ đồng vào khuôn, phải nung đất chín. Nhất là phần bên trong tượng phải xây lò đốt ở dưới chân đế, đốt lên để tượng chín như gạch. Bởi vì nếu để bề mặt đất vẫn còn ướt, khi đổ nước đồng có nhiệt độ khoảng 1.400 độ C, giữa nóng và lạnh sẽ sôi và tạo hơi, khi đó bức tượng sẽ bị lỗi, rỗ và khuôn có thể bị phá.

Ngày trọng đại nấu đồng đổ tượng, nhà chùa đã huy động rất nhiều thợ trong làng ra hỗ trợ việc nấu đồng. Tất cả chia ra thành 10 lò để nấu đồng. Lúc đó cả làng như một đại công trường, làm việc cả ngày liên tục. Có như thế đồng mới được đổ đều, bức tượng mới tạo ra một khối thống nhất. Tất cả những đường gấp khúc, uốn lượn, chìm nổi trên pho tượng đều rất tinh xảo, liền nhau thành một khối hoàn chỉnh, không hề thấy một gờ gợn do sai sót kỹ thuật.

Tài hoa những người thợ Ngũ Xã

Trong nghệ thuật đúc đồng Việt Nam, những người thợ đúc đồng làng Ngũ Xã được đánh giá có tay nghề bậc cao. Những sản phẩm của họ làm ra trải qua bao thăng trầm cùng thời gian vẫn được coi là hình mẫu về nghệ thuật và chất lượng mà không xưởng đúc đồng nào trong cả nước bì kịp. Thành công của người thợ Ngũ Xã khi tiến hành đúc các sản phẩm bằng đồng trong suốt mấy trăm năm nay đã khẳng định tài năng đặc biệt của họ, bên cạnh sự thông minh sáng tạo, đôi mắt nhìn chuẩn xác, bàn tay khéo léo và đức tính cẩn trọng, người thợ thủ công còn có bí kíp nghề nghiệp và kinh nghiệm từ lâu đời.

Điều làm nên sự khách biệt trong các sản phẩm của làng Ngũ Xã chính là ở kỹ thuật đúc liền khối. Việc đúc liền khối những sản phẩm nhỏ đã không hề đơn giản, nên đối với những sản phẩm có kích thước lớn thì khó khăn này càng nhân lên gấp bội. Để đúc thành công một sản phẩm đòi hỏi người thợ phải mất rất nhiều thời gian và công sức. Với sản phẩm thuộc loại vừa và nhỏ thì mất khoảng ba đến bốn tháng mới hoàn thành, còn với các sản phẩm lớn như chuông, tượng thời gian có thể tính bằng năm.

Khâu đầu tiên của quá trình đúc đồng là làm vật mẫu. Thông thường vật mẫu được làm bằng đất sét chuyên ngành điêu khắc, hoặc bằng thạch cao, thậm chí là nhôm. Cái khó nhất là làm sao lột tả được cái thần của nhân vật trong từng chi tiết. Công việc này đỏi hỏi người thợ phải có con mắt nghệ thuật cũng như có những hiểu biết nhất định về đối tượng cũng như hoàn cảnh lịch sử. Tiếp sau khâu làm mẫu là khâu tạo khuôn. Để tạo khuôn người thợ phải dùng đất phù sa sông (sạch sạn) và giấy bản xay nhuyễn thành loại đất có độ dai vừa phải. Trước khi dùng đất đắp khuôn phải rắc một lớp bột vôi hoặc quét một lớp dầu lên vật mẫu để tránh không bị dính khuôn. Khi tiến hành đắp khuôn, người thợ phải miết tay thật kĩ để sao cho các họa tiết, hoa văn, đường nét của vật mẫu in nổi rõ nét vào khuôn. Cách làm khuôn ở làng Ngũ Xã cầu kì hơn các nơi khác ở chỗ, sau khi đắp các lớp áo, người thợ sẽ đợi cho khô mới tiến hành “vỗ khuôn” để các đường nét, chi tiết của vật mẫu ăn vào khuôn trở nên sắc nét hơn.

Ở làng Ngũ Xã hiện nay, phổ biến là loại khuôn hai mảnh, là khuôn được đắp hai lần, mỗi lần đắp một nửa, sau đó ghép lại với nhau, khuôn liền cũng có khi được sử dụng, nhưng chỉ sử dụng với các sản phẩm cầu kì hoặc theo yêu cầu của khách hàng.

Nấu đồng là khâu thể hiện tài năng của người thợ. Để có một nồi nước đồng tốt, người thợ phải lựa chọn loại than già để đảm bảo khi nấu đồng không bị khê. Các nguyên liệu đồng, thiếc, chì sẽ được cho vào nấu chung theo một tỉ lệ bí mật. Theo kinh nghiệm của người thợ khi thấy nước đồng có màu vàng sáng bốc lên thì khi đó cho tiến hành rót đồng. Trước khi rót đồng, cần phải nung khuôn đủ nóng để đảm bảo đồng chảy đều trong khuôn. Việc rót đồng phải đều tay tránh ngắt quãng, tất nhiên phải biết ngừng nghỉ đúng lúc.

Sửa nguội là phần quan trọng trong việc hoàn thiện sản phẩm đồng. Các sản phẩm sau khi được dỡ từ khuôn ra sẽ được cắt bỏ phần thừa, vá hoặc hàn những bộ phận còn khuyết. Người thợ sẽ tiến hành mài, giũa các sản phẩm trước khi chúng được chuyển sang khâu chạm khắc, là nơi người thợ trau chuốt lại các đường nét, hoa văn, họa tiết trên mặt sản phẩm. Đánh bóng bằng giấy giáp mềm và sau đó tiến hành lên màu là những khâu cuối cùng trong việc hoàn thiện sản phẩm, đưa sản phẩm lên đến trình độ nghệ thuật.

Các sản phẩm đồng của làng Ngũ Xã làm ra luôn tạo được sự khác biệt với các sản phẩm nơi khác. Đó là “màu mắt cua” của đồng mà không nơi nào bắt chước được. Đây là kết quả của việc kết hợp đồng, nhôm, chì theo một tỉ lệ chuẩn mực và bí truyền. Chính vì thế sản phẩm đồng Ngũ Xã không bị rỗ, bị phai, để hàng trăm năm vẫn bền vững như vậy.

Ngày nay mặc dù làng nghề Ngũ Xã không còn giữ được vị trí số một trong các làng nghề đúc đồng ở Việt Nam, nhưng kỹ thuật và cách thức đúc đồng vẫn giữ được những sắc thái tinh hoa vốn có.

Làng Ngũ Xã ngày nay

Trải qua những thăng trầm của lịch sử, nghề đúc đồng Ngũ Xã cũng có lúc thịnh, lúc suy. Các sản phẩm đúc đồng của Ngũ Xã nổi tiếng khắp các vùng trong cả nước. Vào những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cuộc sống khó khăn, thiếu thốn khiến người dân Ngũ Xã làm nghề một cách ăn đong, nhà nào làm nhà đấy theo kiểu “sg sửa cưa, trưa mài đục”, nên thợ đúc rất nghèo. Chỉ đến năm 1952, khi Thượng tọa Thích Vĩnh Tường, Trụ trì chùa Ngũ Xã bấy giờ chủ trương đúc một pho tượng lớn Phật Di Đà, cần trưng dụng tất cả thợ giỏi trong làng, thì làng nghề mới nhộn nhịp. Sau khi đúc pho tượng, làng Ngũ Xã lại trở về không khí trầm lắng. Năm 1954, giải phóng thủ đô Hà Nội, nghề đúc chỉ còn lại chút dư âm vì chuyện thờ cúng bắt đầu bước sang giai đoạn mới, mọi người không mua nhiều đồ thờ như trước nữa. Mặt khác, đất nước đang có chiến tranh, nguyên liệu đồng rất cần thiết cho quốc phòng nên Nhà nước quản lý chặt chẽ, không cho buôn bán tự do bên ngoài. Không có nguyên liệu, lại ít người mua, người thợ Ngũ Xã không thể tiếp tục làm nghề. Để đảm bảo cuộc sống, họ phải chuyển sang công việc khác. Nghề đúc đồng Ngũ Xã cứ thế mai một dần.

Ngày nay, làng Ngũ Xã không còn “Lửa nhóm ghen năm xã gây lò” như trong bài phú nổi tiếng Tụng Tây hồ phú của Danh nhân Thăng Long Nguyễn Huy Lượng. Làng bây giờ đã lên thành phố, nhà nối nhà san sát, không còn những bãi đất rộng để các xưởng đúc có thể đặt lò nung tại làng như xưa. Ngọn lửa đốt lò của các xưởng đúc đồng Ngũ Xã giờ chỉ còn được giữ bởi gia đình hai nghệ nhân đúc đồng là ông Nguyễn Văn Ứng và bà Ngô Thị Đan. Nhưng ngọn lửa đó vẫn sẽ cháy mãi, truyền từ đời này qua đời khác. Khi mà vẫn có những người con làng Ngũ Xã dành tâm huyết cho nghề đúc đồng thủ công nổi tiếng của cha ông. Nghề đúc đồng của làng Ngũ Xã sẽ không thể bị mai một./.

Phòng Văn hóa và Thông tin